Thứ Hai, 3 tháng 1, 2011

Vài tư liệu về Vương Quốc Phù Nam, chủ nhân vùng Nam Bộ xưa

Dưới đây là một số tư liệu được tập họp về Phù Nam- Vương quốc từng ngự trị vùng Mekong. Các tư liệu này lấy từ namkyluctinh.org của Bùi Tụy Đào Nguyên và phienvuong trong thotnot.forum. Bài của Bùi Thụy Đào Nguyên còn được đăng trong Wikipedia có nhiều tài liệu tham khảo giá trị. Chưa có thời gian kiểm chứng hết nên tôi tạm gửi ở đây mọi người cùng đọc cho vui.

DNT

Vương quốc Phù Nam Kingdom of Funan



Vương quốc Phù Nam là một quốc gia được cho là từng tồn tại ở khu vực Nam bộ (Việt Nam) nhưng hiện nay gần như không có nhiều tài liệu lịch sử đánh dấu sự hiện diện của nó.
Theo thư tịch cổ của Trung Quốc như Tam Quốc Chí (không phải truyện Tam Quốc Diễn Nghĩa của tác giả La Quán Trung) thì Phù Nam là một quốc gia bao la, trải dài từ Ấn Độ, Miến Điện, Thái Lan, Campuchia và nam Việt Nam ngày nay.

Theo các chứng tích còn sót lại trên lãnh thổ Việt Nam thì nền văn minh Phù Nam là cùng thời với nền văn hóa Óc Eo (trên khu vực tứ giác Long Xuyên). Các chứng tích khác hiện đã phát hiện được nằm rải rác từ Cát Tiên (Lâm Đồng) tới Tây Ninh, Sài Gòn, An Giang, Đồng Tháp, Kiên Giang và Cà Mau.

Các nhà khảo cổ học và sử học cho rằng quốc gia này tồn tại từ thế kỷ thứ 1 đến thế kỷ thứ 7 và bị thôn tính, chia rẽ bởi các quốc gia xung quanh mới nổi lên như Chân Lạp (Chenla), Chiêm Thành (Champa) vào thế kỷ thứ 7 (theo thư tịch cổ Trung Quốc như Tân Đường thư) cũng như do sự lục đục, chia rẽ nội bộ gây nên. Nếu đúng như vậy thì vương quốc Phù Nam có lẽ là một tiểu vương quốc theo Bà la môn giáo nằm trên lãnh thổ Việt Nam ngày nay và là chư hầu của một đế chế rộng lớn như kiểu nhà Chu với các nước chư hầu ở Trung Quốc.

Cư dân Phù Nam sản xuất nông nghiệp, kết hợp với làm nghề thủ công, đánh cá và buôn bán. Ngoại thương đường biển rất phát triển.

Tập quán phổ biến của cư dân Phù Nam là ở nhà sàn. Phật giáo và Ấn Độ giáo (đạo Hindu) được sùng tín. Nghệ thuật ca, múa nhạc phát triển. Xã hội đã có sự phân hóa giàu nghèo thành các tầng lớp quý tộc, bình dân và nô lệ.

LẠI BÀN VỀ TÊN GỌI PHÙ NAM
Thuật ngữ chỉ về văn hóa Phù Nam chính thức được khai sinh trong một bối cảnh có nhiều quan điểm còn trái ngược nhau về việc xác định quốc gia cổ đại này.
Nền văn hoá Óc Eo vẫn còn những vấn đề chưa có lời giải đáp một cách thỏa đáng. Mặc dù chúng ta đã trải qua một hoa giáp sau sự kiện nhà khảo cổ học người Pháp Louis Malleret (thời điểm đó là giám đốc bảo tàng Blanchard de la Brosse, nay là bảo tàng lịch sử TP. HCM) tiến hành đào thám sát vào năm 1944, nhưng vấn đề về văn hóa Óc Eo của một quốc gia mang nền văn minh đô thị Phù Nam vẫn được xem là chứa nhiều bí ẩn cần được khám phá. Từ khi tiến hành đào thám sát vào mùa khô năm 1944 và mãi đến 6 năm sau trong dịp kỷ niệm 50 năm ngày thành lập Trường Viễn Đông Bác cổ EFEO (École Française d’Extrême Orient), ông mới cho công bố một cách chính thức về một nền văn hóa mang đậm yếu tố miền sông nước như Óc Eo và những vấn đề của cái gọi là quốc gia Phù Nam. Theo L. Malleret thì di chỉ Óc Eo có một mối quan hệ văn hoá khá rõ nét với các vùng khác trong khu vực. Đồng với quan điểm này, nhà nghiên cứu J. Boisselier khi tiến hành chủ sự đào thám sát ở U Thong (Thái Lan) đã công bố thêm bằng hiện vật để khẳng định về quan điểm trên. Cả hai ông đã cùng thuận để xếp di chỉ Óc Eo và di chỉ U Thong vào nền văn hoá Phù Nam.

Từ những ý định ban đầu này một thuật ngữ chỉ về văn hóa Phù Nam chính thức được khai sinh trong một bối cảnh có nhiều quan điểm còn trái ngược nhau về việc xác định quốc gia cổ đại này. Và rồi từ đó, dựa trên cổ sử Trung Hoa, quá trình tìm về một vương quốc ngày càng thu hút khá nhiều các nhà khoa học như G. Coedès, Yamamoto Taturo, Sungimoto, Naojiro, Inuishi Hidetoshi…, với những tranh luận nảy lửa về tên gọi và vị trí kinh đô của vương quốc Phù Nam. Dẫn đến Claude Jacques, một học giả Pháp, lại buộc phải lên tiếng về những nghi ngờ của ông về hai quốc gia Phù Nam và Chân Lạp này. Nhìn chung tất cả những vấn đề của Phù Nam vẫn luôn là đề tài cần được xác định, đặc biệt là từ sau 1975, khi mà hàng loạt các di chỉ được khai quật từ vùng Ba Thê (An Giang) kéo dài đến tận Nam Cát Tiên (Lâm Đồng). Từ đó, qua những điểm khai quật và những hiện vật tìm được, chúng ta có thể hình dung ra được một không gian văn hóa Phù Nam: trải rộng hầu khắp các tỉnh miền Tây và Đông Nam Bộ, mang đậm yếu tố nội sinh với nguồn lực hấp thu từ rừng sâu, núi cao và đồng bằng trũng bởi hệ thống kinh rạch chằng chịt. Hệ thống cảng thị tiếp nối với kênh rạch là nét đặc trưng của quốc gia cổ đại Phù Nam, đã tạo nên một nguồn lực văn hóa mà phức hệ của nó vô cùng phong phú và đa dạng. Chính từ những yếu tố này mà sự phát triển của tôn giáo đã giữ vai trò chủ đạo. Nhìn chung, khi nói đến Phù Nam, người ta buộc phải nói đến những tôn giáo được truyền bá và tồn tại, trong đó nổi bật nhất vẫn là Hindu giáo và Phật giáo. Hai tôn giáo chủ đạo này đã phát triển một cách mạnh mẽ và chi phối hầu hết đời sống, văn hoá của cư dân Phù Nam. Rất tiếc rằng, gần 60 năm sau sự kiện phát hiện văn hoá Óc Eo và quốc gia cổ đại Phù Nam, vẫn chưa có một công trình nào viết về tôn giáo cả. Riêng đối với Phật giáo Phù Nam thì dường như lại càng ít được đề cập, trong khi đó hiện vật liên quan đến tôn giáo này đã tìm được khá nhiều và phổ biến hầu khắp trên những di tích đã được phát hiện. Bài viết này được rút ra từ một công trình nghiên cứu khoa học về văn hóa Phù Nam sẽ được xuất bản trong thời gian sắp đến. Chúng tôi trình bày lại về vấn đề Phật giáo như là những công bố ban đầu về đề tài này hầu cung cấp thêm thông tin cho những nhà nghiên cứu lịch sử Phật giáo Việt Nam về một nền Phật giáo ở phương Nam trong bối cảnh còn khan hiếm tư liệu như hiện nay.

1. Tên gọi Phù Nam
Chung quanh cái gọi là vương quốc Phù Nam, vẫn còn bao nhiêu điều bí ẩn. Chỉ cái tên Kaundinya (Hỗn Điền và Kiều Trần Như) trong truyền thuyết dựng nước Phù Nam cũng đã tốn hao bao nhiêu giấy mực thảo luận. Trong hội nghị khoa học về Đông Nam Á thời cổ ở Luân Đôn năm 1973 - mà tài liệu công bố năm 1979 - Claude Jacques, học giả Pháp đã nêu ra một loạt nghi vấn quanh vấn đề Phù Nam và Chân Lạp. Ý kiến được nhiều người thừa nhận, do L. Finot đưa ra và được G. Coedès, P. Dupont phát triển, cho rằng Phù Nam là phiên âm từ bnam (hay vnam), có nghĩa là Núi, ứng với danh hiệu Vua Núi, tức kurun bnam trong tiếng Khmer cổ, và parvatabùpàla, từ sanskrit đã gặp trên bi ký. Nhưng Claude Jacques đã cho biết rằng cái tên kurun bnam chưa bao giờ tìm thấy trên bi ký Khmer, còn cái tên parvatabùpàla chỉ gặp ở bi ký Han Cei mà thôi. Trên bi ký Han Cei, từ parvatabùpàla xuất hiện hai lần, nhưng cả hai lần đều viết với số nhiều nghĩa là “các vua núi”. “Các vua núi” này bị một vua Bhavarman nào đó đánh bại. Không có lý do nào để coi các vua núi ở đây là vua Phù Nam, chúng ta chỉ có thể nghĩ như Claude Jacques, rằng đó chỉ đơn giản là những vua vùng núi cùng thời.

Về Bhavarman, thì Coedès cho là đã trở thành vua Chân Lạp sau khi kết hôn với bà chúa Kambujaràalaksmì thuộc dòng dõi vua Sresthavarman. Kết luận này Coedès rút ra từ bia Ta Prohm mà ông đã công bố, từ khi còn là một học giả thanh niên. Nhưng Claude Jacques đã chỉ ra một cách rõ ràng chỗ nhầm lẫn của Coedès khi đọc bia Ta Prohm. Theo bia này, Kambujaràalaksmì không phải là vợ của Bhavarman như Coedès nói, mà là vợ của một ông vua khác có tên là Harsavarman. Như vậy không có chứng cứ để coi Bhavarman là vua Chân Lạp, và kẻ bị ông chinh phạt là vua Phù Nam. Do một chỗ nhầm lẫn đó, toàn bộ giả thuyết của Coedès rõ ràng đã không đứng vững. Những điều mà ta tưởng là đã sáng tỏ thì vẫn mờ mịt.

Theo Jacques, trên đất Khmer cổ có nhiều vương quốc, mà trong đó biết rõ nhất là Bhavapura, Aninditapura, Vỳadhapyra, Srésthapura. Cũng có thể kể thêm các thành trấn thời kỳ tiền Angkor, có thể đã là những lãnh thổ độc lập như Amoghapura, Cakrankapura, Bhimapura, Tàmrapura, Dhavipura, Purandarapura, Lingapura, Ugrapura, Dhruvapura. Theo Jacques, những cái tên này cho chúng ta một ý niệm chính xác về địa lý của đất Khmer cổ hơn là những cái tên Phù Nam hay Chân Lạp - những từ dưới dạng đó không có trong ngôn ngữ Khmer.

Năm 1981, Lương Ninh cũng đã trình bày một suy nghĩ tương tự, cho rằng “không thể hình dung Phù Nam là một đế quốc đã được tổ chức thống nhất thành một bộ máy cai trị và bóc lột” mà “ chỉ là sự tập hợp của những tiểu quốc, trong đó mỗi tiểu quốc vẫn giữ nguyên tổ chức, tên gọi riêng và cả truyền thống của mình”. Điều thú vị là Lương Ninh đã định vị một tiểu quốc trong số đó là Naravaranagara ở miền Tây sông Hậu, mà Óc Eo là nằm trong đất của quốc gia này. Hiển nhiên đấy cũng chỉ là một giả thuyết, Óc Eo có thể nằm trong đất Naravaranagara, thậm chí là thủ đô của quốc gia này, nhưng cũng có thể quốc gia này không kéo dài đến đây

Một số di vật Óc EoDầu sao thì việc coi các vết tích đã khai quật được ở Óc Eo thuộc văn minh Phù Nam cũng là vội vã, khi chúng ta chưa biết Phù Nam là gì?

Với những hoài nghi của Claude Jacques đã có những yếu tố để chúng ta cùng đồng cảm. Thật ra, với danh xưng Phù Nam mà các nhà chép sử Trung Hoa ghi chép, luôn đặt lại vấn đề cho chúng ta ngày nay. Điều cần bàn thêm rằng, các nhà chép sử Trung Quốc đã gọi Phù Nam theo phiên âm từ ngôn ngữ nào. Chúng ta cần lưu ý, tài liệu ghi chép được thông qua chính bởi cách gọi đương thời của quốc gia ấy. Các nhà chép sử Trung Hoa thông qua văn thư ngoại giao và phái đoàn ngoại giao khi tìm đến cống nạp đầu tiên để gọi vùng hay lãnh thổ quốc gia này. Và một điều nữa, Phù Nam chỉ tồn tại trong khoảng 7 thế kỷ với một cương thổ bao chiếm phần lớn khu vực Đông Nam Bộ vùng hạ lưu sông Mêkông và trải dài đến Myanmar, rồi sau đó bị Chân Lạp thôn tính, biến thành những tiểu quốc mang tính độc lập khác nhau. Chính vì yếu tố này, chúng ta cần phải xác định lại tính nguyên khởi của tên gọi Phù Nam trong bối cảnh trước khi trở thành một đế chế rộng lớn như các cổ sử Trung Hoa đã từng gọi cho quốc gia Chămpa. Trong Cựu đường thư hay Hậu Hán thư, giới sử học Trung Hoa đã ghi chép đến hai quốc gia mang tính liên hoàn đó là nước Hồ Tôn và nước Chí Tôn. Hai quốc gia láng giềng này đã thực thụ có một mối quan hệ như thế nào trong quá trình hình thành và phát triển, là hướng gợi mở cho chúng ta có phương pháp tiếp cận. Thật ra câu chuyện được ghi chép một truyền thuyết về hai thị tộc trong cộng đồng người Chăm đã phần nào hé mở cho chúng ta về truyền thuyết các dòng họ vương tôn xuất thân từ hai dòng họ lớn. Mỗi dòng họ lấy một vật tổ (Totem) làm biểu tượng. Dòng vương tôn ở phía Nam lấy cây Cau (Kramuka vansa) làm biểu tượng, gọi là bộ tộc hay thị tộc Cau. Dòng vương tôn phía Bắc lấy cây Dừa (Narukela yamisa) làm biểu tượng, gọi là bộ tộc hay thị tộc Dừa. Truyền thuyết ghi rằng hai dòng họ đánh nhau liên tục để giành lãnh thổ, nhưng cuối cùng phải tạm thời chia nhau để trị; bộ tộc Cau cai quản phương Nam và bộ tộc Dừa ngự trị phương Bắc. Sự phân định ranh giới ấy như là cách ấn định vùng ngự trị của cả hai bộ tộc, tiến đến sự tách bạch thành hai quốc gia độc lập. Nếu theo cách gọi của ngữ hệ Malayo- Polynésien thì rõ ràng dòng họ Dừa được gọi là Li-U và sử gia Trung Hoa phiên âm thành Li-Y (Lâm Ấp), và dòng họ Cau được gọi là Fou-Nưn tiếng Trung Hoa phiên âm là Fou-Nan (Phù Nam). Điều này càng minh định rõ hơn khi mà cả hai dòng họ xác định dòng dõi của mình cụ thể rằng bộ tộc Dừa có tổ tiên thuộc dòng Biển (A-Tau tathik) và bộ tộc Cau thuộc dòng Núi (A-Tauchơk). Cách gọi nước Hồ Tôn Tinh và Chí Tôn mà sử gia Trung Hoa đề cập là cách gọi trại từ Atau-Tathik thành Hồ Tôn và Atau-Chơk thành Chí Tôn. Từ đó chúng ta thấy, quá khứ họ từng là hai bộ tộc sống hòa thuận, nhưng vì tranh giành lãnh thổ nên hai bộ tộc đã tiến hành những cuộc chiến tranh, để cuối cùng chia ra thành hai quốc gia đối lập đó là Lâm Ấp và Phù Nam.

2. Vấn đề biên giới Phù Nam và dấu ấn Phật giáo
Theo P. Pelliot thì vào thế kỷ thứ III, khi đã khuất phục những vương quốc lân cận, Srimara xưng tước Đại Vương Phù Nam, để đi khắp nơi trên biển lớn đánh vào hơn 10 quốc gia khác. Trùng lấp với sự kiện này, sách Lĩnh Nam Chích Quái viết: “Xưa kia bên ngoài lãnh thổ Âu Lạc có một vương quốc mang tên Diệu Nghiêm (có thể là Phù Nam). Vị vua của vương quốc này có tên là Tràng Minh, hiệu quỷ vương (Dasanana) có mười đầu. Phía bắc vương quốc có một vương quốc khác tên Hồ Tôn Tinh (quốc gia của người khỉ) do vua Dasaratha cai trị. Hoàng tử Chung Tư (Rama), người kế vị vua Dasaratha, có một người vợ là công chúa Bạch Tinh (Sati). Công chúa Bạch Tinh có một sắc đẹp tuyệt trần không giống như người phàm. Quỷ Vương mê hồn trước sắc đẹp của Bạch Tinh, mang binh sang đánh nước Hồ Tôn Tinh cướp công chúa về nước. Hoàng Tử Chung Tư quá căm giận, dẫn đầu một đoàn hầu binh xé núi, băng biển tiến vào vương quốc Diệu Nghiêm, giết Quỷ vương, đưa công chúa Bạch Tinh về”.

Theo nhận xét của học giả Huber (La Légende du Ramayana en Annam, Etudes indochinoises), Hồ Tôn Tinh có thể là vương quốc Chămpa cổ. Những quốc gia chịu ảnh hưởng nền văn minh Ấn Độ thời đó điều có sự tích giống nhau, tại Indonésia trong các đền thờ Bà La Môn lớn đều khắc chuyện thần thoại này trên đá. Chuyện Quỷ vương có mười đầu chỉ là một cách mô tả “thô thiển” ngai vàng của các vị vua trong thần thoại Ấn Độ, và Phù Nam thường có hình con rắn hổ mang (naja) mười đầu.

Dựa vào một văn bia viết bằng chữ Sanskrit được phát hiện tại làng Võ Cạnh thuộc Thành Phố Nha Trang ngày nay, chúng ta biết vào thế kỉ II-III, một triều đại có tên gọi Srìmàla được hình thành, triều đại này được xem là triều đại được biết sớm nhất thông qua bi ký tìm thấy ở Việt Nam. Và bi ký Võ Cạnh là bi ký có mặt sớm nhất ở Đông Nam Á. Về mặt niên đại, từ những sự kiện về triều đại Srimara, một lần nữa cho chúng ta biết được địa bàn tồn tại của quốc gia cổ Phù Nam thật rộng lớn. Địa bàn xuất phát và nơi khai sinh ra thị tộc Cau, được đánh dấu bằng tấm minh văn mà nội dung của nó nói theo G.Coedès “thấm đậm tinh thần Phật giáo”. Căn cứ vào truyền thuyết dòng họ Cau - Dừa chúng ta có thể xác định nơi phát tích của thị tộc Cau thuộc dòng Khauthara (Nha Trang). Chính vì vậy mà vị hoàng đế mang miếu hiệu Srimara trong thời gian trị vì của mình đã cho đặt một tấm minh văn nhằm ghi dấu nơi khởi phát của tổ tiên trong tiến trình nam tiến về vùng đầm lầy lưu vực sông Mêkông trải dài đến Myanmar. Tiến trình nam tiến ấy là quá trình chinh phục thị tộc thuộc lưu vực sông Mêkông. Bên cạnh đó, với sự thiên di của các dân tộc hải đảo từ thế kỷ thứ II TCN cho đến thế kỷ thứ I giữa Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương đã là bối cảnh chung cho những tiếp xúc văn hoá giữa các cộng đồng tiền sử và cổ đại ở trong vùng. Vào cuối thời đại đá mới, đã có những giao lưu hai chiều giữa các tộc người ở Ấn Độ và Đông Nam Á bằng đường biển vượt Ấn Độ Dương vào vịnh Thái Lan bên cạnh một đợt thiên di và hoằng pháp của các vị tu sĩ, các thương gia buôn bán hương liệu vượt cao nguyên Tây Tạng men theo dòng sông Mêkông đến Myanmar, rồi xuôi về vùng hạ lưu thuộc vùng đồng bằng sông Cửu Long. Sau nhiều thế kỷ tiếp xúc đã dần dần du nhập vào các dân tộc thuộc châu thổ sông Cửu Long nền văn hoá Ấn Độ mang hơi thở tôn giáo. Óc Eo từ đó trở thành một trung tâm văn hóa Phù Nam phát triển từ đầu công nguyên cho đến thế kỷ thứ 7 trên đồng bằng Nam Bộ. Bắt đầu từ ranh giới Võ Cạnh (Nha Trang ngày nay) kéo dài đến vùng Mé Nam và bán đảo Mã Lai và cả vùng hải đảo phía Nam, mà một hình ảnh cụ thể có thể hiểu là: một tập hợp các tiểu vương quốc và những bộ lạc lớn được phân bố theo tộc người. Trong vùng hội tụ của những dòng giao lưu giữa các tộc người khác nhau của cổ vương quốc Phù Nam rộng lớn thông qua con đường truyền giáo và buôn bán đã có những quan hệ văn hoá mở rộng đến Trung Hoa, Java, Thái Lan, Mã Lai, Ấn Độ, Địa Trung Hải, Trung Á…, với một nền văn minh cảng thị tiên tiến. Chính từ nền văn minh cảng thị ấy, một nguồn lực tôn giáo được khởi mở đã hóa độ được một ông vua từng có thành tích chuyên đi chinh phục các nước láng giềng trở thành một Phật tử thuần thành để rồi khắc lên ý nguyện mang đậm yếu tố giáo lý Phật giáo trong bài minh văn của bi ký Võ Cạnh gắn chặt triều đại Srimara và dấu ấn Phật giáo khó phai mờ.

Thông Thanh Khánh, VĂN HOÁ PHẬT GIÁO SỐ 10 -THÁNG 11-2005

Vài nét về văn hóa óc eo

Văn hóa Óc eo thuộc các tỉnh Nam bộ, cư dân ở đây có nhiều vùng sinh thái khác nhau và có những nét văn hóa khác nhau
• Tiểu vùng từ giác Long Xuyên:
Vào những năm 1931 – 1936 Các nhà khoa học Pháp tìm thấy những di tích lớn như Ba Thê, Đá Nổi nằm ở những nơi giao hội của các đường nước cổ. Bản thân Óc eo là thị cảng. Ngoài ra, trong khu tứ giác Long Xuyên có các di tích cư trú nhà sàn, xưởng thủ công, kiến trúc đền thờ, đền tháp, mộ hỏa táng.
• Tiểu vùng Đồng Tháp Mười
Di tích phân bổ ở nhiều vị trí khác nhau. Di tích có quy mô nhỏ. Dân cư sống ở trên nhà sàn hoặc nhà đất. Ngoài ra, còn có kiến trúc đền tháp, mộ hỏa táng, bia ký
• Tiểu vùng ven biển Tây Nam
(Vùng U minh – Năm Căn) Di tích đều tập tập trung ở vùng trũng: nhà sàn, kiến trúc đá, mộ táng, bệ thờ, tượng thần

• Tiểu vùng rừng Sác duyên hải: Di tích là những gò đất đắp nổi cao hơn mặt biển chừng 1-3m. Đó là các “giồng”. Đây là nơi giao tiếp giữa văn hóa Óc eo – Đồng Nai và Sa huỳnh.
• Tiểu vùng ven biển Đông: Từ sông Tiền đến Minh Hải. Di tich phân bố ở đồng bằng ven biển, giáp sông Tiền và sông Hậu với các di tích kiến trúc lớn như Lưu Cừ II, Trà Cú, Gò Thành, di tích mộ táng, minh văn chữ Phạn và di tích cư trú
• Tiểu vùng Đông Nam bộ:
• Đây là vùng chuyển tiếp từ cao nguyên xuống đồng bằng sông Cửu Long. Di tích di vật Oc eo có kiến trúc gạch đá hỗn hợp tượng thần như di tích Gò Cây Mai, Bình Tá, Gò Xoài.
• Văn hóa hậu Óc eo chủ yếu tìm thấy ở vùng Biên Hòa, Long Thành. Vùng Nam Cát Tiên là một trung tâm lớn
• Văn hóa Óc eo đã từng phát triển. Họ xây dựng nhiều công trình phục vụ tôn giáo như đền tháp, mộ táng. Rất tiếc những công trình này đều đã bị phá hủy, nay chỉ còn nền móng. Các công trình này có quy mô lớn, diện tích rộng, xây dựng kiên cố bằng gạch, đá, ngói
• Người Óc eo chủ yếu trồng lúa, dừa, mía, cau và nhiều loại cây quả khác. Phát triển chăn nuôi, thuần dưỡng gia súc
• Nghề thủ công phát triển cao như nghề làm đồ trang sức vàng, đá mang biểu tượng Bàlamôn giáo và phật giáo như linga bằng vàng đâm xuyên qua một lá vàng mỏng tượng trưng cho màng trinh v.v…
• Nghề gia công kim loại màu, nhất là đồ thiếc rất phát triển.
• Nghề chế tác đồ đá làm đồ gia dụng và điêu khắc như cối, chày, các bức tượng Phật, các loại thần
• Nghề làm gốm cũng phát triển, chế tác bằng bàn xoay như chén bát, bình, vò, chai,
• Nghề sản xuất vật liệu xây dựng cũng phát triển để xây dựng đền, tháp, mộ hỏa táng
• Trước đây, người ta cho rằng ngừơi Óc eo là tổ tiên của người khmer. Nhưng những nghiên cứu gần đây đã chứng minh ngược lại. Những di tích tìm được cho thấy đây là sản phẩm của người nói tiếng Malayo – Polinésien cư trú. Khi phân tích các sọ cổ và xương người cổ ở di tích Óc eo, các nhà khoa học cho rằng đây là hài cốt của người Indonesia.
• Như vậy văn hóa Óc eo có sự ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ
• Như vậy, thiên niên kỷ đầu công nguyên ở Việt Nam có ba nền Văn hóa: Văn hóa châu thổ Bắc bộ, Văn hóa Chăm và Văn hóa Óc eo. Diễn trình của Văn hóa Việt Nam là diễn trình của 3 nền văn hóa này.
• Ở châu thổ Bắc bộ, thời kỳ Bắc thuộc và chống Bắc thuộc
• Ở Trung bộ và Nam bộ là Văn hóa Chăm và văn hóa Óc eo tiếp xúc một cách tự nhiên với văn hóa Ấn Độ, khiến cho 2 vùng này có những nét văn hóa đặc thù riêng.

Phế đô của vương quốc Phù Nam

Phát hiện năm 1942. Từ tháng 2 đến tháng 4/1944 được Louis Malleret, nhà khảo cổ người Pháp, khai quật lần đầu ở nhiều địa điểm khác nhau trên cánh đồng Óc Eo bên chân núi Ba Thê (Thuộc huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang ngày nay). Những công bố sau đó của ông về bằng chứng của vương quốc Phù Nam cổ xưa, ước vào đầu công nguyên đến thế kỷ VII, đã gây chấn động trong giới cổ học thế giới. Không cao niên về tuổi địa chất nhưng đồng bằng sông Cửu Long lại chứng kiến những bước chân văn minh đầu tiên của con người trên trái đất này. Những gì tìm được sơ bộ khi ấy cũng đã cho thấy dấu vết của thời đại đá mới bước sang thời đại kim khí, cư dân này cũng đã biết canh nông và đã có sự giao lưu với các nền văn hoá trong khu vực rộng lớn từ biển Đông thuộc Thái Bình Dương vươn dài về phía tây tới tận vịnh Bengan thuộc Ấn Độ.

Mất hơn 30 năm gián đoạn do chiến tranh, mãi sau 1975 những cuộc tìm kiếm dấu vết của vương quốc bị mất tích này mới được tiếp tục trở lại. Không chỉ có quanh vùng Óc Eo, dấu tích của vương quốc Phù Nam cổ xưa lần lược hiện lên từ Cạnh Đền (Kiên Giang), Gò Tháp (Đồng Tháp), Gò Năm Tước, Gò Rộc Thanh (Long An) rồi ngày một lan toả ra các vùng Tiền Giang, TP. Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Vũng Tàu đến Nam Cát Tiên (Miền Đông Nam Bộ). Chắc chắn những vết lộ này còn chưa dừng lại ở đây nếu nó còn được tìm kiếm xa hơn về hướng Tây Nam trên lãnh thổ của hai quốc gia Campuchia và Thái Lan.

Sự phát hiện ngày một phong phú đã dẫn đến nhiều nhận định khác nhau về vai trò của khu di chỉ Oc Eo trong vương quốc cổ: “là một đô thị rộng lớn, một thị cảng phồn vinh, một tung tâm kinh tế sống động với mối quan hệ giao thương Âu-Á khá rộng rải. Đồng thời, đô thị Oc Eo xưa cũng là một di tích tiêu biểu cho nền văn minh của một quốc gia cổ hình thành vào loại sớm nhất ở Đông Nam Á” (theo Louis Malleret); hay: “vùng di tích quanh núi Ba Thê với phạm vi rộng lớn tập trung nhiều di tích thờ cúng, lăng mộ, thật sự là một trung tâm lớn, đã qui tụ nhiều tinh hoa kỹ thuật-nghệ thuật các mặt của nền văn hoá này. Từ vị trí được xác định như vậy, chắc hẳn vùng này cũng là một trung tâm quyền lực” (nhận định của Lê Xuân Diệm).

Dù là trung tâm tập quyền hay kinh thương, cho đến thời điểm này, các nhà khảo cổ trong và ngoài nước vẫn thống nhất với nhau rằng, Oc Eo là trung tâm đô hội lớn nhất của toàn bộ nền văn hoá Phù Nam.


Bằng chứng về một nền văn hoá đa sắc và rực rỡ

Dưới những hố khai quật ở Oc Eo đã tìm thấy nhiều di cốt của vật nuôi như chó, heo, gà, mèo. Trong những hình khắc trên vật dụng và trang sức bằng gốm, đồng và vàng có hình voi được đóng bành trên lưng. Thuần dưỡng được loài đại súc vật như voi để làm công cụ, chứng tỏ cư dân Phù Nam cổ đã có một trình độ phát triển rất cao. Việc này thư tịch cổ Trung Quốc còn ghi: “Họ (Phù Nam) có 5.000 voi chiến (…) (thời) Trúc Chiên Đàn (vua Phù Nam) xưng vua, sai sứ sang cống voi đã thuần dưỡng” (Tân Đường Thư). Đoạn thư tịch trên còn là bằng chứng: Phù Nam khi ấy đã là một nhà nước tập quyền, trong khi xã hội Sa Huỳnh, một nền văn minh kề cận (kết thúc thế kỷ I), vẫn chưa thấy dấu vết của một nhà nước có tổ chức.

Những mẫu lúa ở các di tích Nền Chùa, Oc Eo có dạng hạt tròn và cả những hạt lúa hoang dại. Theo Nguyễn Xuân Hiển: “Nghề trồng lúa ở Oc Eo thuộc dạng đầm lầy, đã sử dụng dạng kênh rạch để hỗ trợ cho cây lúa, và không xa nơi trồng lúa, còn bạt ngàn cả từng vạt lúa hoang dại”. Trong sách “Con đường lúa gạo” Watabe còn cung cấp một bằng chứng quan trọng: “Trong gạch mộc ở Oc Eo có chứa vỏ trấu hạt dài (…). Loại lúa hạt dài có tên gọi là lúa tiên, thuộc hệ Bengal, được du nhập từ Ấn Độ đến vào khoảng những thế kỷ đầu Công Nguyên”.

Nhưng thủ công nghiệp mới là hoạt động nổi bật nhất. Người ta dễ dàng tìm thấy thành phẩm rất đa dạng đủ kích cở từ tượng thần, tượng phật, linh vật thờ cúng đến đồ trang sức, đồ gia dụng, vật liệu xây dựng được chế tác từ vàng, bạc, đồng, sắt, đá quí, gỗ, đất nung, thậm chí có cả thuỷ tinh nhiều màu. Không chỉ thế, rất nhiều dụng cụ để chế tác ra các sản phẩm này cũng được tìm thấy từ dấu vết lò nung, nguyên liệu, phế liệu, những vết quặng nung chảy cho đến con lăn, bàn nghiền, cối, chày, nồi nấu, khuôn đổ, bàn mài… Nhiều nghề thủ công này cho thấy có nguồn gốc ngoại nhập, nhưng đã được thiết lập tại chỗ để sản xuất cho nhu cầu nội địa và có thể cả cho xuất khẩu. Trong Lương thư và Tân Đường Thư còn ghi: “Xứ Phù Nam xuất vàng, đồng, thiết, trầm hương, ngà voi, công, chim thằng chài, vẹt ngũ sắc”, “Dân Phù Nam tìm thấy kim cương rất nhiều dưới lòng sông, trên núi đá. Dân chúng lặn xuống nước, mò kiếm dễ dàng. Xứ đó xuất kim cương”.

Tuy nhiên, các nhà khảo cổ cũng không ít bối rối để phân biệt sản phẩm nào được sản xuất và đâu là những món hàng du nhập. Người ta tìm thấy ở đây từ những tấm huy chương của các vương triều La Mã, gương đồng Đông Hán, tượng Phật Bắc Nguỵ, tượng thần Bà-la-môn Ấn Độ, cho đến đồ trang sức, vật dụng sinh hoạt của các khu vực khác đương thời ở Đông Nam Á.

Một điểm nữa cũng đáng lưu ý: hầu hết những dụng cụ đồ đá tìm thấy ở vùng di chỉ này đều chỉ là công cụ dành cho sản xuất, không tìm thấy công cụ cho sinh hoạt.


Cuộc tàn sát của hậu thế

Cách nay 97 năm người ta phát hiện dưới chân núi Ba Thê có bức tượng “Phật bốn tay” nên đã dựng lên ngôi chùa để thờ. Đó là chùa Linh Sơn ngày nay. Thật ra đó là pho tượng Visnu Ananta, có hình rắn naga bảy đầu làm thành tán che phía sau. Bức tượng này cao tới 3m30, nhưng để biến nó thành bức tượng Phật ngồi người ta đã xây bít hết phần chân tượng thành ra cái bệ thờ. Có một việc có lẽ cũng ít người biết là bức tượng Bà được thờ trong chùa Bà dưới chân núi Sam, Châu Đốc, khiến làm nên lễ hội Vía Bà, một lễ hội hằng năm thu hút hơn 2 triệu khách du lịch cả nước, thực ra cũng không phải pho tượng của người nữ mà là pho tượng có dạng lưỡng tính thường gặp trong điêu khắc có nguồn gốc tín ngưỡng Bà-la-môn. Bức tượng này cũng được tìm thấy tương tự bức của chùa Linh Sơn. Nói điều này để thấy, công cuộc “phát hiện” của dân gian đã xảy ra trước ngày ông Louir Malleret khai quật Oc Eo rất lâu. Dù có gần 2000 năm tuổi, nhưng những di chỉ của Oc Eo không bị vùi lấp chôn sâu đến độ mất dấu.

Ngày nay, đứng giữa cánh đồng Oc Eo bên di chỉ Gò Cây Thị có mái che, dù trước mắt là vết lộ của kiến trúc móng chìm một đền đài khá kiên cố, bạn cũng khó mà hình dung nơi đây từng là kinh đô của một vương quốc hùng mạnh. Sau công cuộc khai quật có mục đích đầu tiên, có đến mấy mươi năm khu di chỉ này từng không có ai là chủ nhân. Đó cũng là thời gian của vô số những cuộc khai quật không có mục đích, hay nói đúng hơn chỉ có mục đích tàn phá. Cho đến bây giờ, nếu dạo quanh vùng Giồng Cát, Giồng Xoài, cả những làng quanh chân núi Ba Thê ta vẫn còn thấy nhiều thềm nhà, lối đi được kè lót bằng những viên gạch ngàn năm. Nhưng cuộc tàn sát tập thể lớn nhất khu di chỉ này phải kể đến là vào những năm 80 của thế kỷ 20. Cuộc tàn sát này có tên gọi là “bòn vàng”. Từ một ai đó tìm thấy vàng và tin được đồn thổi loan đi. Người của khắp nơi đổ đến như ong tìm mật, những lúc cao điểm có đến ngàn người. Người viết bài này từng có mặt ở đây vào một ngày của mùa nước nổi để chứng kiến những chiếc ca nô của ngàng công an rượt đuổi những người đào bới chẳng khác ném viên đá giữa ao bèo. Cả cánh đồng Ba Thê ngày ấy còn hoang hóa bị xới tung đến từng mét vuông. Người ta chỉ tìm vàng, còn tất cả đều là đồ bỏ đi. Gạch, đá, mảnh gốm ngổn ngang. Tượng đá, tượng gỗ xứt tai, gảy chân lăn lóc góc cây ụ đất. Thời đó dễ dàng tìm thấy ở góc tre, buội chuối bên hè nhà dân quanh vùng những bình gốm xứt mẻ có ngàn năm tuổi. Nhiều di vật giờ đây còn được lưu giữ trong các bảo tàng đã được thu gom từ trong dân giang sau trận bòn vàng này. Bức tượng phật bằng gỗ cao gần 2m hiện đứng trong lồng kính ở bảo tàng An Giang cũng đã được thu gom như thế. Thực ra đây là bức tượng gỗ dát vàng. Nhưng khi chủ nhân của nó bây giơ tìm được thì nó chỉ còn cái cốt gỗ.


Bí ẩn về sự tiêu vong

Dấu vết thời hưng thịnh của vương quốc Phù Nam thì nhiều vô kể. Nhưng dấu tích cho biết về thời kỳ suy yếu dẫn đến diệt vong của cả vương quốc này thì còn rất mơ hồ. Đọc qua một ít tài liệu khảo cổ về nền văn hoá này cũng chưa gặp được ý kiến nào đề cập đến việc này. Có hai giả thuyết thường được nghe truyền miệng trong giới chuyên môn.

Giả thuyết thứ nhất cho rằng sự xoá sạch cả mộ cộng đồng cư dân rộng lớn như thế chỉ có thể là do thiên tai. Có thể đó là một trận hồng thuỷ hay một cuộc đại dịch bệnh. Nhưng theo những tại liệu được nhiều nhà khoa học thế giới đồng tình thì kỷ tan rã băng hà cuối cùng cách đây ít ra cũng đã 8.000 năm. Những trận động đất hay những cơn sóng thần cụt bộ như xảy ra ở Nam Á vừa rồi khó thấy khả năng xoá được cả một vương quốc như Phù Nam. Nguyên nhân dịch bệnh lại không thấy có căn cứ. Qua tổng kết các cuộc khai quật chỉ tìm thấy vài mươi bộ hài cốt cổ, mà hầu hết họ đều được táng trong mộ.

Nhiều ý kiến nghiêng về giả thuyết do những cuộc ngoại xăm tàn sát. Có ý kiến còn đi gần hơn, nghi vấn rằng ngoại ban ấy chính là người Java (Mã Lai). Nhưng chẳng thấy ai chứng minh được gì cho sự đổ thừa vô cớ này. Thư tịch cổ chưa tìm ra sách nào ghi như thế.

Thành ra người nay khi nhìn vào những di vật vẫn cứ bâng khuâng: “Người xưa đâu tá?”.


Ghi chú: Bài viết có dẫn tài liệu từ sách Văn hoá và cư dân đồng bằng sông Cửu Long và Văn hoá Oc Eo và các văn hoá cổ ở đồng bằng sông Cửu Long.

Nguyễn Trọng Tín

Chú thích
1. Ghi theo Lịch sử Camphchia (tr. 32). Sách Giáo trình du lịch ghi là Sailaraja và
cũng dịch là vua núi (tr. 97)
2. Lược theo Giáo trình du lịch (tr. 97), Lịch sử Camphchia (tr. 32)
3. Sử nhà Lương & sử Nam Tề chép tương tự. Ở bài soạn này, xin các bạn đọc
lưu ý là tên các vị vua Phù Nam, mỗi sách phiên âm mỗi khác. Và các năm tháng
ở trong bài, chỉ có tính tương đối.
4. Tư liệu & nhận định chép theo Lịch sử Campuchia (tr. 34) & Giáo trình du lịch (tr.
97).
5. Theo Lược sử vùng đất Nam Bộ Việt Nam (tr. 19), Giáo trình du lịch (tr. 98) và
Lịch sử Campuchia (tr. 34-35).
6. Lịch sử Camphuchia, tr. 39.
7. Cát Miệt, do người Hoa phiên âm từ Khmer. Về sau quốc gia này có tên gọi là
Chân Lạp. (chú thích lấy ở sách Lược sử vùng đất Nam Bộ Việt Nam, tr. 19).
8. Tùy thư, Quyển 82, Liệt truyện 47, tờ 5. (Tư liệu khoa Sử, Đại học Quốc gia Hà
Nội, H. 1949).
9. Tân Đường thư, Quyển 222 hạ, Liệt truyện 147 hạ, tờ 3 (Bản chữ Hán, Tư liệu
khoa Sử, Đại học Quốc gia Hà Nội, H. 1948.
10. Lược sử vùng đất Nam Bộ Việt Nam, tr. 20.
11. Mã Đoan Lâm, Văn hiến thông khảo, Quyển 332, Tứ duệ khảo, tờ 9. (Tư liệu
khoa Sử, Đại học Quốc gia Hà Nội, H. 875.
12. Óc Eo: tên một cánh đồng nay thuộc xã Vọng Thê, huyện Thoại Sơn, tỉnh An
Giang.
13. Theo Địa chí văn hóa TP. HCM, tập I, phần 2, tr. 119.
14. Cuộc khai quật đầu tiên của Malleret đã tiến hành với 24 điểm. Cho tới nay, trên
sườn núi Ba Thê và cánh đồng Óc Eo đã có trên 50 địa điểm có giá trị khảo cổ
học đã được ghi nhận và nghiên cứu. Tính đến năm 1975, bộ sưu tập về văn
hóa Óc Eo - Ba Thê đã có 3.969 hiện vật. Trong đó bao gồm: 498 đồ vàng, 137
đồ bạc, 4 chì, 83 thiếc, 149 đồ đồng, 2.749 đồ đá màu (trong đó có 2.522 chuỗi
hạt, 79 đồ đá khác, 285 đất nung, 7 đồ gỗ và một số hiện vật không xác định rõ)
13 | T r a n g
15. Lược sử vùng đất Nam Bộ Việt Nam, tr. 17.
16. Từ điển Văn hóa Đông Nam Á, tr. 305.
17. Lược theo Giáo trình du lịch (tr. 101-102) và Lịch sử Campuchia (tr. 40-44)
18. Địa chí văn hóa TP. HCM (tập I, phần 2, tr. 113) & Giáo trình du lịch (tr. 99).
Sách Lược sử vùng đất Nam Bộ Việt Nam ghi cư dân Phù Nam mang đặc điểm
nhân chủng Tiền Mã Lai (Protomalais).
19. Ghi theo Lược sử vùng đất Nam Bộ (tr. 18). Giáo trình du lịch cho rằng chữ
Brami, là thứ chữ đã được dùng ở Ấn Độ từ thế kỷ 3 đến thế kỷ 5. (tr. 99)
20. Ghi theo Lược sử vùng đất Nam Bộ (tr. 18). Giáo trình du lịch cho rằng người
Phù Nam nói tiếng Ngữ tộc Môn – Khmer (tr. 98).
21. Louis Malleret. L’Archéologie du delta du Mékong, Tome 3, Paris, 1963, tr. 314.
22. Lịch sử Campuchia, tr. 44.
23. Ngô thư, Ngô chủ truyện (quyển 47, tờ 31). Dẫn lại theo Lược sử vùng đất Nam
Bộ Việt Nam, tr. 14.
24. Mahaxvara, là một trong những tên gọi của thần Civa. Đoạn trích này in trong
sách Lịch sử Campuchia, tr.41-42.
25. Sử nhà Lương. Đoạn trích in trong sách Lịch sử Campuchia, tr.42.
26. P.Pelliot, Le Fou Nan, Hanoi, 1903 & Lược sử vùng đất Nam Bộ Việt Nam, tr. 18.
27. Lược theo Giáo trình du lịch, tr. 111-114.
28. Xem chi tiết tại đây:
[http://www.skydoor.net/place/Khu_di_t%C3%ADch_G%C3%B2_Th%C3%A0nh]
29. Võ Sĩ Khải viết: Căn cứ vào những kết quả nghiên cứu gần đây, có thể thấy
những di tích khảo cổ học mang dấu ấn Chân Lạp trên đất Nam Bộ trước thế kỳ
16 không nhiều và ảnh hưởng văn minh Angkor ở vùng này cũng không đậm nét.
(Địa chí văn hóa TP. HCM tập I, tr. 183.
30. Tùy thư, Quyển 82, Liệt truyện 47, tờ 5. Tư liệu khoa sử, Đại học Quốc Hà Nội,
H. 1949.
31. Tân Đường thư, (bản chữ Hán). Tư liệu khoa sử, Đại học Quốc Hà Nội, H.1948.
32. Lược theo Lịch sử Campuchia, tr. 28-29.
33. Vùng Bà Rịa ngày nay.
34. Chu Đạt Quan, Chân Lạp phong thổ ký. Nxb Thế giới, Hà Nội, 2006, tr.45.
35. Xem bài Phế đô của vương quốc Phù Nam.
[http://dulich.tuoitre.com.vn/Tianyon/Index.aspx?ArticleID=96300&ChannelID=10
0]
36. Lịch sử Campuchia, tr. 47-48.
37. Địa chí văn hóa TP. Hồ Chí Minh, tập I, tr. 118.
14 | T r a n g
Tham khảo chính
 Lược sử vùng đất Nam Bộ (in lần thứ 2) do GS TSKH Vũ Minh Giang chủ biên.
Sách của Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam tổ chức biên soạn, NXB thế giới ấn
hành, Hà Nội, 2008.
 Lịch Sử Camphchia do Phạm Việt Trung, Nguyễn Xuân Kỳ, Đỗ Văn Nhung biên
soạn. Nxb Đại Học & THCN, 1982.
 Địa chí văn hóa TP. HCM, tập I, phần 2 do Võ Sĩ Khải biên soạn. Nxb TP. HCM,
1987.
 Ngô Văn Doanh, Từ điển Văn hóa Đông Nam Á phổ thông. Nxb VH-TT, 1999.
 Kiến thức phục vụ thuyết minh du lịch (gọi tắt là Giáo trình du lịch) giáo trình do
Hiệp hội du lịch TP HCM biên soạn, Nxb Tp. HCM ấn hành năm 1995.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét