Thứ Ba, 29 tháng 5, 2012

Anh Viện


Nguyễn Ngọc Giao



chandungÔng Nguyễn Khắc Viện, nguyên tổng thư ký Liên hiệp Việt kiều tại Pháp nguyên giám đốc Nhà xuất bản Ngoại văn, tổng biên tập báo Thư tín Việt Nam và tạp chí Nghiên cứu Việt Nam, giám đốc Trung tâm N-T, giải thưởng lớn Pháp ngữ của Viện Hàn lâm Pháp (1992), huân chương Độc Lập hạng nhất (1997), đã từ trần ngày 10.5.1997 tại nhà riêng ở Hà Nội. sau nhiều tháng trọng bệnh, thọ 85 tuổi. Đám tang bác sĩ Nguyễn Khắc Viện đã cử hành ngày 16.5 tại nghĩa trang Mai Dịch. Các nhà lãnh đạo (Đỗ Mười, Võ Văn Kiệt ,Võ Nguyên Giáp...) đã tới viếng hoặc gửi vòng hoa.


Anh chỉ kém Bác Hãn 5 tuổi và ngang tuổi mẹ tôi, nhưng tôi xin phép vẫn được gọi bằng anh, như từ ngày được gặp anh lần đầu ở Pháp, khi ấy anh chưa đầy ngũ tuần.
Được tin anh đau nặng từ tháng 11 năm ngoái. Với bạn bè tới thăm hay điện thoại từ xa, anh nói sẽ không qua khỏinăm 1996. Trước đó vài tháng, anh đã viết một bài trên báo Sức khoẻ & Đời sống đăng kèm lá thư viết từ tháng 4-96:
Kính gửi các bạn đồng nghiệp ngành y tế,
Tôi nay đã 83 tuổi, từhơn 40 năm nay bị thiếu thở trầm trọng, nay mai giá thử có tai biến gì, hay mắc thêm bệnh khác, xin các cơ sở y tế tiếp nhận tôi :
– Đừng khám nghiệm gì thêm X quang, thử máu, nội soi...
– Đừng cho thuốc men nào, không phẫu thuật, truyền huyết thanh, thở oxy...
Xin để cho tôi ra đi nhẹ nhàng, rút ngắn những ngày nằm dài, không trò chuyện gì được với ai, ăn uống vệ sinh đều phải người phục vụ, sống thêm vài ba ngày hay tháng chỉ làm khổ cho bản thân, cho vợ con, cho các bạn. Chỉ xin thuốc giảm đau, nếu cần dùng morphin cũng chẳng hề gì.
Nếu cứ ép buộc tôi, tôi sẽ hết sức cưỡng lại.
Tôi xin tuyên bố gánh lấy trách nhiệm hoàn toàn về tôi.
Xin trân trọng biết ơn các bạn.
Trong bài báo, anh bảo vệ quyền tới tuổi được chết và quyền giúp chết (euthanasie), tạo ra một từ mới, rất đạt, là hộ tử, cũng như khi người ta ra đời, được bác sĩ hay bà đỡ hộ sinh. Quan niệm hộ tử từ lâu đã phổ biến ở Bắc Âu, gần đây ở Tây Âu. Ở ta còn mới.
Đó cũng là một đặc tính trong phong cách Nguyễn Khắc Viện : một thái độ dấn thân toàn tâm, toàn ý, lời nói và việc làm đi đôi với nhau. Luôn luôn quan tâm tới các vấn đề của xã hội, tuổi càng cao, anh càng đạt tới cái đạo lý : tiếp cận các vấn đề ấy từ góc độ con người, những con người cụ thể. Anh đặt vấn đề hộ tửcũng như anh đã phổ biến phương pháp dưỡng sinh, luyện thở trong giới các cụ già, bắt đầu từ ngõ Nguyễn Chế Nghĩa, phố Trần Hưng Đạo, ra thành phố, rồi cả nước. Cũng như anh đã xách túi đựng những quả cầu bằng nhựa mà anh đặt làm, đi khắp phố phường Hà Nội để bán cho thiếu niên, gây lại trò chơi đá cầu truyền thống, với cao vọng nâng nó thành một bộ môn thể thao. Đối với anh, đó là những việc quan trọng không kém việc viết cuốn Một đôi lời, tâm sự với thanh niên đang cùng xã hội trải qua cuộc khủng hoảng của thập niên 80, hay thành lập và nuôi sống Trung tâm N-T nghiên cứu tâm lý trẻ em (tổ chức phi chính quyền đầu tiên ở Hà Nội, ra đời năm 1989).
Người không biết anh, có thể cho một vài việc vừa kể trên là chuyện đồ gàn. Nói như vậy chỉ đúng một nửa, nghĩa là sai hoàn toàn. Đúng, vì Nguyễn Khắc Viện quả là một ông đồ thời nay, thậm chí một ông đồ Nghệ : anh đã chẳng từng dùng bút hiệu Nguyễn Nghệ để viết sách và báo ở Pháp đó sao ? – kể cũng hơi lạ, anh là người Hà Tĩnh, cũng như bác Hãn, mà theo tôi hiểu, đối với nhiều bà con Nghệ Tĩnh, thì Nghệ là Nghệ, Tĩnh là Tĩnh ! Nhưng thôi, chuyện ông đồ xin nói sau. Ở đây, xin nói về cái sai của thành kiến giả định trên : quan niệm của anh Viện là thân thể, tâm thần và tư tưởng con người là một tổng thể. Đó không chỉ là một quan niệm, mà là kinh nghiệm sống còn của bản thân anh.
Để hiểu điều đó, có lẽ chỉ cần gặp anh một lần. Chưa gặp chỉ cần nhìn pho tượng la hán Tuyết Sơn ở chùa Tây phương : một thân hình gầy guộc, một đôi mắt tinh anh. Anh Viện chỉ " hơn " Tuyết Sơn một điểm : lưng anh sâu hoắm một vệt dài. Con người ấy, từ nửa thế kỷ nay, sống với dung tích hai phần ba lá phổi bên trái (lá bên phải đã bị cắt hoàn toàn). Chín năm (1942-51) sống ở viện dưỡng lao St-Hilaire- du-Touvet (gần Grenoble), một năm ròng " nằm yên không nói một lời, y tá lặng lẽ ra vào chăm sóc ", 7 lần lên bàn mổ, cưa 8 khúc xương sườn. Trong thập niên 40 (chưa có thuốc kháng sinh, lại trong điều kiện chiến tranh) khi người ta bị lao, thì chỉ còn cách nằm chờ, bệnh nhẹ thì cơ thể vượt qua thử thách, bệnh nặng thì hy vọng sống vài năm là cùng. Anh Viện bệnh nặng, rất nặng, chỉ còn cách vận dụng yoga, khí công và hiểu biết khoa học để tìm ra phương pháp thở bụng (xem khung trang bên), rèn luyện tâm thể để đẩy lùi tử thần.
Nguyễn Khắc Viện sinh ngày 6-2-1913 tại Hương Sơn, Hà Tĩnh, con trai cụ nghè Nguyễn Khắc Niêm (hai đời vợ, 14 con). Đỗ tiến sĩ, cụ mong làm quan đốc học, nhưng Pháp bỏ chữ nho, cụ đành làm quan chính trị (án sát Vinh, rồi về làm việc ở Huế) và căn dặn các con đừng làm quan. Đỗ tú tài ở Hà Nội xong, giữa Luật và Y dược, " vào luật tất dẫn đến làm quan, tôi lựa ngành y, sau này chữa bệnh cứu người, vừa bảo đảm cuộc sống đầy đủ cho bản thân và gia đình, vừa được xã hội kính trọng chữa cho người giàu lấy tiền nuôi thân, chữa không tiền cho người nghèo, và ngaynhững người Pháp cũng phải nhờ đến tôi khi gặp bệnh nặng ". Năm 1937, học xong năm thứ ba y khoa Hà Nội (cùng Phạm Biểu Tâm), Nguyễn Khắc Viện lên đường sang Pháp. Ngoại trú, rồi nội trú các bệnh viện Paris, tốt nghiệp bác sĩ y khoa năm 1941.
Con đường học vấn và lập danh thẳng băng của người thanh niên ưu tú ẩy đến đây gặp một khúc ngoặt, của thời đại, và của cá nhân.
Mùa hè 1939, anh đạp xe đạp đi nghỉ hè ở vùng Bretagne (năm trước, đạp xe xuống Bordeaux, đi về 1200 km). Tháng 9, đạp xe về Paris, thì Chiến tranh thế giới thứ II cũng ập tới. " Chuyện gì vậy ? Cho đến lúc ấy tôi chưa bao giờ mua một tờ báo, không bao giờ nghe đài ; ai đánh ai, vì sao, được thua sẽ như thế nào ? phát xít là gì ? chống phát xít là gì ? toàn nhùng câu hỏi hết sức xa lạ với tôi, lần đầu tiên tôi vấp phải, mà không có một cơ sở nào để giải đáp (...) trong mấy năm trời, mải học tôi chẳng hề biết đến, nay tôi đứng trước một cuộn tơ vò không biết gỡ theo mối nào ". Thời cuộc là thế, cá nhân thì bệnh lao bắt đầu, như đã kể ở trên. Cùng lúc ấy, tình hình người Việt Nam ở Pháp có một thay đổi lớn : từ mấy trăm người (chủ yếu là học sinh, sinh viên và trí thức), nay thành mấy vạn, gồm những cơ, những ngũ công binh, chiến binh – ta vẫn gọi chung là lính thợ, hay ONG (ouvriers non spécialisés, thợ không chuyên nghiệp) – mà chính quyền thuộc địa đưa sang Pháp để phục vụ cuộc chiến tranh chống Đức trong khoảng 39-40. Vừa đặt chân lên mẫu quốc được vài tháng, thì Pháp thua trận, hai ba chục nghìn lính thợ Việt Nam phải sổng và lao động khổ cực trong những trại dưới sự quản trị của sở Nhân công bản xứ (Mâm d~uvre indigène, viết tắt là M.O.I. , từ đó có tên sở Mọi, làng Mọi)nhiều người bị bệnh. Một số trí thức và sinh viên, trong đó có anh Viện, tìm cách giúp đỡ anh em công chiến binh, chủ yếu về mặt xã hội, y tế và văn hoá.
Đó là thời điểm trỗi dậy của tinh thần dân tộc, cũng là giai đoạn trăn trở tìm đường của những thanh niên Việt Nam tại Pháp. Cùng một điểm xuất phát là lòng yêu nước, họ sẽ đi theo những hành trình rất khác nhau. Ở Paris, bác sĩ Trần Hữu Tước hình như đi con đường thẳng, đưa anh từ bệnh viện tới chiến luỹ(barricade) giải phóng Paris mùa hè 1944. Trước đó hai năm, Huỳnh Khương An đang chuẩn bị thi thạc sĩ (agrégation), sẽ bị Đức xử bắn ở Chateaubriant (mộ anh hiện ở nghĩa trang Père-Lachaise (Paris). Phạm Quang Lễ (tướng Trần Đại Nghĩa tương lai, cha đẻ của súng không giật SKZ) mùa hè 40, khi quân Đức tràn sang Pháp, cùng Nguyễn Khắc Viện, Hoàng Xuân Nhị đi xe đạp tản cư xuống bờ nam sông Loire, sau đó tìm đường sang Đức để học chế tạo vũ khí. Hè 1943, một nhóm sinh viên Việt Nam khác cũng sang Đức học, trong đó có Hoàng Xuân Nhị, Lê Văn Thiêm (nhà toán học), Nguyễn Hoán (hoá học), Trần Văn Du (bác sĩ). Có lẽ không phải ngẫu nhiên mà cùng thời điểm ấy, ở Việt Nam, một số sinh viên lên đường sang Nhật. Trong số ấy hai người trở thành những nhà khoa học lỗi lạc và sẽ trở về nước tham gia kháng chiến : Đặng Văn Ngữ (sinh học), Lương Định Của (nông học).
Họ đều là những trí thức, những nhà khoa học, không ai trở thành chính khách. Tại sao họ sang Đức, sang Nhật (ngoài lý do là họ được cấp học bổng, và gặp dịp học hỏi chuyên môn) ? Có động cơ chính trị nào không ? Hiện nay, chúng ta không có một tài liệu nào, một chứng từ nào cho phép khẳng định chính xác. Chỉ biết là không ai trong họ bị quyến rũ bởi ý thức hệ quốc xã phátxít. Và chắc sẽ không sai sự thực nếu ta giả định rằng, cũng như nhiều thanh niên trí thức các nước thuộc địa khác, họ có thể đã lập luận theo kiểu " kẻ thù của kẻ thù (có thể) là bạn ta ". Đó là nếu họ có những suy nghĩ chính trị, chứ không ngừng ở ý chí học cho bằng được kỹ thuật chuyên môn để sau này phục vụ đất nước (như trường hợp Trần Đại Nghĩa).
Còn Nguyễn Khắc Viện ? Sau 18 tháng điều trị Ở St- Hilaire-du-Touvet, người thấy khoẻ, mùa hè 1943, anh " xuống núi ". Anh đã đi theo đoàn sinh viên sang cả Berlin, để thấy quang cảnh nước Đức sau thất bại ở Stalingrad, và hai tuần sau, trở về Pháp, " lao vào hoạt động xã hội chính trị, không dựa vào một tô chức nào, chỉ vài anh em bàn qua với nhau, tôi vừa phí sức vừa phí thời giờ chạy qua chạy lại từ trại này sang trại khác. Thời chiến, ăn uống thất thường, đi lại khó khăn, mệt xác thì nhiều, kết quả chẳng là bao. Dù sao nhờ đó cũng làm quen được một số anh em cốt cán trong các trại chiến binh và công binh (còn tiếp).

Nguyễn Ngọc Giao



Có lần tôi hỏi anh : " Nếu như làm một tuyển tập các bài viết của anh, thì theo anh, những bài nào là có giá trị lâu dài ? "
– Trước hết là bài về tập thở...
Hàng ngàn trang viết của anh, trong đó không ít trang được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới, được bạn bè quốc tế coi là " cẩm nang " khi nghiên cứu về Việt Nam, vậy mà anh lại coi bài vè mấy câu rất thô sơ là giá trị nhất : Thót bụng thở ra / Phình bụng thở vào / Hai vai bất động / Chân tay thả lỏng / Êm, chậm, sâu, đều / Bình thường qua mũi / Khi gấp qua mồm / Đứng ngồi hay nằm / Ở đâu cũng được / Lúc nào cũng được. Tôi thầm đọc và không khỏi mỉm cười. Theo cách nghĩ thông thường, bảo rằng mấy câu vè nôm na này là " tác phẩm " giá trị nhất của bác sĩ Nguyễn Khắc Viện thì quả là hài hước. Nhưng hình như anh nói nghiêm chỉnh... Và hình như anh biết tôi đang thầm đọc, nên khẽ nhắc thêm : " Nhưng nhớ là phải theo thật đúng, không sót một câu nào, chữ nào ".
Tôi nhớ, trước đây đã có lần anh bảo : " Hàng trăm bài viết của mình bàn chuyện thế sự, cho dù in khắp đông tây nam bắc, có khi gây sự và chịu tai tiếng, những rồi cũng qua thôi. Chính trị là thế. Còn bài vè thì đúng với muôn đời, muôn người. Có thể nói đây là luận văn khoa học ngắn gọn về khí công dễ phổ biến nhất, kể cả những người mù ".

Nguyễn Khắc Phê 

(Tuổi trẻ Chủ nhật, 18.5.97)

1943. Chưa đầy bốn tháng hoạt động ở các trại công chiến binh, " một hôm tôi bỗng rùng mình, nổi cơn sốt rồi khạc ra đờm : 'bệnh tái phát rồi'. Tôi trở lại sana (...) Bệnh tình lần này khá khiêm trọng, bác sĩ đề nghị làm phẫu thuật nhưng sức quá yếu, không chắc gì chịu được một vụ mổ xẻ. Bác sĩ bảo tôi nằm yên một năm không nói năng gì để lấy lại sức. Một năm trời tôi nằm yên không nói một lời, y tá lặng lẽ ra vào chăm sóc. Rồi lên bàn mổ nhiều lần ", anh Viện kể lại như vậy trong một tập hồi ký chưa công bố.
Yên lặng là một phương pháp điều trị bệnh lao (cure de silence) của thời ấy (gần 20 năm sau vẫn còn áp dụng, hạn chế vào khoảng hai, ba giờ trưa). Nhưng yên lặng trong suốt một năm trời là một kỷ lục đã biến Nguyễn Khắc Viện thành một huyền thoại sống trên cao nguyên Saint-Hilaire-du-Touvet, như lời kể của bác sĩ S. Tomkiewiecz trong buổi lễ tưởng niệm tối 18-6 vừa qua tại trụ sở UNESCO ở Paris. Ông Tomkiwiecz còn tìm thấy ở đó một cuộc trở về nguồn, tìm tòi triết học và đạo lý phương Đông, song song với việc vận dụng khoa học phương Tây. Có điều chắc chắc là chính tại St-Hilaire, anh đã học yoga và luyện khí công để tìm ra phương pháp thở bụng đã nói ở trên, cũng như đã học chữ nho, để đọc kinh điển Hán văn và tập thư pháp.
Về mặt chính trị, nhũng năm ở viện dưỡng lao cũng là thời gian tìm đường và tập dượt. Trái với hình ảnh Nguyễn Khắc Viện cộng sản mà nhiều người có sẵn như một định kiến, hành trình chính trị trong thập niên 40 của anh cũng khá gập ghềnh. Khởi điểm là một sự mù tịt hầu như tuyệt đối về chính trị, ngoại trừ lòng yêu nước thương nòi của một gia đình khoa bảng gia giáo (xem DĐ số trước). Hè 43 còn sang Berlin xem tận mắt nước Đức quốc xã. Sang năm 44 còn viết một bài báo đăng trên một tờ báo sinh viên, khẳng định lập trường quốc gia, với xu hướng sẵn sàng xây dựng một chế độ độc tài hay ít nhất một chế độ mạnh để đưa nước nhà tiến lên. 45-47, có quan hệ khá thân thiết với nhóm trôtkit Việt Nam lúc đó có ảnh hưởng lớn trong hàng ngũ công chiến binh. Phải tới năm 1949, Nguyễn Khắc Viện mới tham gia Đảng Cộng sản Pháp và hoạt động trong chi bộ cộng sản Pháp ở Saint-Hilaire. Theo lời kể của ông Hoàng Khoa Khôi, khi quyết định như vậy, anh đã gửi thư cho nhóm trôtkit để nói : từ nay các anh muốn biết lập trường của tôi, chỉ cần đọc báo Humanité. Những năm tiếp theo đó được đánh dấu bằng những cuộc luận chiến khá nảy lửa giũa anh Viện (cùng những đồng chí Việt Nam trong ĐCS Pháp) và anh em trôtkit, đặc biệt chung quanh vấn đề Nam Tư và việc đánh giá Tito, cũng như nhận định về Staline, Trotsky, Mao. Nảy lửa, không khoan nhượng về lập trường, song quan hệ cá nhân vẫn giữ được tình người. Được như vậy, có lẽ nhờ hai yếu tố. Một là, tập tục của các nhóm trôtkit có một ưu điểm lớn (so với các đảng cộng sản đệ tam) là vẫn giữ quan hệ cá nhân bình thường, duy trì tình bạn với những người rời bỏ tổ chức. Hai là, vẫn theo chứng từ của anh Khôi, ở thời điểm ấy, anh Viện thành thực nghĩ rằng Trotsky đã phản bội cách mạng, song vẫn đánh giá anh em trôtkit Việt Nam là những người có lòng yêu nước và có tinh thần cách mạng. Phải chăng đây cũng là một nét thầy đồ Nghệ Tĩnh, xa lạ với lối cư xử cạn tàu ráo máng.
Nhưng ta hãy quay trở lại cao nguyên St-Hilaire, vì ở đây là một cái nút quyết định trong cuộc đời Nguyễn Khắc Viện. Tại St-Hilaire, ngoài viện dưỡng lao dành cho sinh viên và trí thức (khoảng 300 bệnh nhân), còn có viện dưỡng lao của công nhân mỏ và công nhân luyện kim. Tổng cộng bệnh nhân, nhân viên bệnh viện, dân làng khoảng ba ngàn người, họp thành một tiểu xã hội với đầy đủ thành phần. Sinh hoạt văn hoá phong phú : nhiều nhà khoa học, văn hoá (trong đó có Albert Camus) được mời lên núi thuyết trình. Đấu tranh chính trị sôi nổi, thậm chí gay gắt giữa hai lực lượng chính trị áp đảo chính trường Pháp thời đó là đảng MRP (phái hữu Thiên chúa giáo) và đảng cộng sản (tham gia chính quyền từ 1944 đến 1947). Nguyễn Khắc Viện tham gia cuộc sống văn hoá, chính trị ở đây, và tất nhiên trở thành nhân vật quy chiếu trong vấn đề chiến tranh Đông Dương. Tại đây, anh đã kết bạn với rất nhiều người Pháp, sinh viên có, công nhân có. Chính những người bạn thân này sẽ cưu mang anh trong thập niên 50 khi anh hoạt động bí mật ở vùng Paris. Cũng chính họ, trong thập niên 60, khi anh trở về Hà Nội, sẽ góp tiền mua sách gửi về cho anh, bình quân hàng năm 300 cuốn.
Những năm sanatorium quả là thời kỳ tu dưỡng và tập dượt về khoa học, văn hoá, chính trị của Nguyễn Khắc Viện. Tốt nghiệp bác sĩ nhi khoa (năm 41), anh đã có thiên hướng về nhi khoa và tâm lý nhi đồng, nên năm 1948, đã soạn cuốn Lòng con trẻ, có lẽ là tác phẩm đầu tiên bằng tiếng Việt về tâm lý trẻ em. Sách gửi về Việt Bắc năm 1949, nhưng mãi đến năm... 1992, mới được nhà xuất bản Phụ Nữ công bố. Tôi nêu điểm này để hiểu tại sao, sau khi nghỉ hưu (năm 1984), anh đã trở về với mối tình đầu, và tập trung sức lực mười năm cuối đời cho khoa tâm lý học trẻ em. Cũng tại đây, anh đã có dịp tranh luận với Albert Camus về đạo Khổng, như anh đã nhắc lại trong bài Khổng giáo và chủ nghĩa Marx ở Việt Nam (đăng lần đầu trên tạp chí La Pensée, in lại trong Expériences vietnamiennes,và Bàn về đạo Nho). Và cũng tại đây, anh đã ngồi xe lăn phản bác một chính khách MRP lên núi quảng cáo cho giải pháp Bảo Đại (đuối lý, phe hữu viết thư đòi đuổi tên Việt Minh sách động ra khỏi sana, nhưng thất bại vì dấy lên một phong trào phản đối từ sinh viên, công nhân, cũng như bác sĩ và nhân viên y tế).
1951 Sau 7 lần lên bàn mổ, với dung tích thở 1 lít (dung tích trung bình của người thường : 4 lít), Nguyễn Khắc Viện quyết định xuống núi. Tất nhiên, các bác sĩ đều khuyên can, và tin chắc anh sẽ phải trở lại, rất sớm. Song lần này, anh tin rằng đã tìm ra bí quyết để giành lấy sự sống, với cái giá phải trả là liên tục luyện thở, tập dưỡng sinh, dè sẻn sức lực, tiết kiệm từng hơi thở và tiết kiệm thời gian. Tuy nhiên, anh cũng tập dượt thêm một thời gian bằng cách không trở lại Paris ngay, mà lưu lại một năm ở dưới chân núi, là thành phố Grenoble.
Cuối năm 1952, anh về Paris. Chiến tranh Đông Dương tiếp tục, ác liệt Nhưng tình hình đã khác hẳn thời kỳ đầu, khi mà chính quyền thực dân chắc mẩm sẽ dẹp loạn sau một thời gian ngắn. Phong trào chống chiến tranh Đông Dương lên mạnh, không chỉ thu hẹp vào Đảng cộng sản (lúc đó còn khá mạnh). Ngay trong nội bộ giới cầm quyền, đã có sự phân hoá, xu hướng đi tìm giải pháp thương lượng với Việt Minh đã manh nha. Cụm từ la sale guerre (cuộc chiến tranh bẩn thỉu) đã xuất hiện và trở thành phổ biến : điều đáng chú ý là cụm từ này không xuất phát từ ĐCS hay phong trào hoà bình, mà nó đã ra đời dưới ngòi bút của Hubert Beuve-Méry, trong một bài xã luận đăng trên báo Le Monde (những ai chỉ biết Le Monde trong cuộc chiến tranh Mỹ-Việt thập niên 60 có thể không biết rằng cuối thập niên 40, nhật báo này đã ủng hộ chính sách chiến tranh ở Đông Dương). Cuốn sách của Philippe Devillers ra đời lúc đó, tuy đã tạo ra một huyền thoại về Leclerc và Sainteny chủ hoà không hoàn toàn đúng với sự thật lịch sử (xem cuốn sách của Stein Tonnesson), song đã có một tác dụng không nhỏ vào việc phát triển xu thế thương lượng. Tuy nhiên, cuộc chiến tranh lạnh vẫn nóng hơn bao giờ (chiến tranh Triều Tiên diễn ra khốc liệt, chủ nghĩa McCarthy và chủ nghĩa Stalin hoành hành ở hai bên bức màn sắt) và giấc mộng đế chế vẫn bám chặt đầu óc một bộ phận lớn của giai tầng chính trị Pháp (xin nhớ cuộc chiến tranh Algérie bùng nổ sau Điện Biên Phủ, và sẽ kéo dài 8 năm, ngang với chiến tranh Đông Dương).
Phong trào Việt kiều ủng hộ chính phủ kháng chiến cũng phát triển theo đà phong trào hoà bình Pháp. Ngoài nòng cốt là các bác lính thợ nay đã trở thành những công nhân thực thụ (ở Renault và các xí nghiệp lớn nhỏ), một số ra mở quán ăn, trở thành tiểu thương, và những trí thức quen biết như Phạm Huy Thông, Trần Đức Thảo (về chiến khu năm 52), Phan Nhuận..., nay có thêm sức sống mới là những học sinh sinh viên (phần đông qua Pháp sau khi phong trào Trần Văn Ơn bị đàn áp). Trong khi lực lượng ủng hộ lá bài Bảo Đại vẫn lèo tèo, sự lớn mạnh của phong trào Việt kiều trở thành một thách thức đối với nhà cầm quyền Pháp, và người lãnh đạo phong trào (Phạm Huy Thông), một cái gai.
Một buổi sáng tinh khôi tháng 12-52, cảnh sát khám nhà một số anh em Việt kiều. Hơn 10 người, trong đó có Phạm Huy Thông, bị giải về giam ở Sài Gòn. Nhưng bắt hụt một số khác, trong đó có Nguyễn Khắc Viện. Anh kể lại trong tập hồi ký : « Hồi ấy tôi ở ngoại ô Paris, trong một gia đình công nhân Pháp, ông bà Lephay, với một cậu con trai làm thợ cắt kính, một cô con gái làm thợ may. Vì quen cậu con trai ở bệnh viện, nên lúc ra viện, gia đình ấy mời tôi về ở với họ, bà mẹ bảo tôi : chỉ cần thêm một bát đĩa thôi, chẳng tốn kém gì. Hai ông bà không phải là đảng viên, nhưng làm công nhân từ 14-15 tuổi nên đã trải qua nhiều vụ đình công biểu tình (...) ông bà không rõ tôi làm gì cụ thể, nhưng cũng hiểu tôi là một người Việt Nam yêu nước, đồng thời là một đảng viên ; vì đã kinh qua thời Đức chiếm, nên ông bà cũng không hỏi tôi nhiều hơn. Tuy ở đấy, nhưng cũng có ý đề phòng, nên tôi vẫn có nơi khác trú chân, nhiều đêm không ngủ nhà. Đúng hôm cảnh sát đến, thì tôi đi vắng. Cảnh sát vào lục nhà, không tìm được tài liệu gì, sau dẫn bà Lephay đi khắp các đường phố Paris, hỏi cho kỳ được là tôi trốn ở đâu. Sau này bà Lephay kể lại :" Cảnh sát dẫn tôi đi ba ngày liền. Trong một tháng sau, mỗi lần tôi lên xe buýt về Paris lại một thằng lẽo đẽo đi theo, xem thử tôi đi những nơi đâu ". Trong hai năm trời, tôi không gặp lại gia đình ấy, có lúc cũng muốn ghé thăm vài phút, nhưng nguyên tắc hoạt động bí mật là tuyệt đối (...). Vấn đề đầu tiên là tìm được nơi ở an toàn, anh em bảo nên dựa vào mạng lưới của Đảng cộng sản Pháp, tôi bảo không cần. Mạng lưới quen biết của tôi xây dựng trong 10 năm ở sana, nay ở Paris không phải ít người, trí thức có, công nhân có, đảng viên có, ngoài đảng có, tôi biết là họ sẵn sàng giúp và sẽ không bao giờ phản tôi. »
Chính trong thời gian này, anh đã thuộc lòng các tuyến đường và các trạm métro (xe điện ngầm) của Paris, mấy chục năm sau, ngồi ở Hà Nội, có thể chỉ dẫn đi từ bất cứ nơi nào tới bất kỳ phố nào, đổi tuyến ở trạm gì, ngồi toa nào cho gần cửa correspondance hay lối ra nhất ! Thay thế Phạm Huy Thông lãnh đạo phong trào, anh làm song song công việc Việt kiều và công tác ngoại giao, tiếp xúc với chính giới Pháp từ tả sang hữu (trong việc này, anh được sự trợ giúp tận tình và hiệu quả của ông Nguyễn Văn Chỉ, là chồng giáo sư Françoise Baccot mà bạn đọc quen biết với bút danh Françoise Corrèze). Những năm 1953-55 hoạt động bí mật ấy một mặt anh bị bộ nội vụ Pháp truy lùng, mặt khác được bộ ngoại giao nể nang, coi anh là đầu mối để liên hệ thương lượng với đối phương. Cuộc truy lùng mãi tới năm 56 mới (tạm) chấm dứt, khi phái đoàn y tế của bác sĩ Hồ Đắc Di sang Pháp (phái đoàn đầu tiên của Việt nam Dân chủ Cộng hoà đến Pháp, sau khi tổng đại diện Trần Ngọc Danh bị trục xuất). Louis Puiseux và Henri Van Regemorter, hai người bạn thân, kể lại : Nguyễn Khắc Viện đi xe đạp tới nhà hàng Maxim's dự cuộc chiêu đãi khoa trưởng y khoa Hồ Đắc Di ! Hình như người đầu tiên tới bắt tay anh ở ngay cổng vào là ông Lecurieux, thanh tra mật thám, mà bà con Việt Nam ở Pháp (có người học cùng với ông ta ở Lycée Albert Sanaut, Hà Nội) vẫn quen gọi bằng các tên Việt Nam (dịch sát từ tiếng Pháp) : ông Tò Mò.Nói đến xe đạp và Nguyễn Khắc Viện, có lẽ cũng nên mở ngoặc để kể thêm một giai thoại khác, xảy ra ở một thời điểm sau đó hơn một thập niên, tại Hà Nội. Theo một người thân, có lần anh hẹn gặp thủ tướng Phạm Văn Đồng, và đạp xe tới Phủ Chủ tịch. Tới nơi thì được người trực (dám là người đồng hương khu IV lắm) mời về, không phải vì đi xe đạp, mà vì anh mặc... quần soóc.
Sau năm 1956, nhà cầm quyền Pháp đã cấp thẻ cư trú hợp lệ cho anh Viện, và để hội Liên hiệp Việt kiều thành lập. Hoạt động đến năm 1959 thì LHVK bị cấm. Đó là thời điểm mà chính quyền Ngô Đình Diệm đẩy mạnh quốc sách chống Cộng, nhưng dẹp đi hai màn cải lương bài phong và đả thực. Về phía chính phủ De Gaulle, với chuyến đi thăm Sài Gòn của bộ trưởng Pinay (cha đẻ của đồng Franc mới) cũng muốn cải thiện quan hệ với ông Diệm, ít nhất để bảo vệ quyền lợi kinh tế của Pháp còn nhiều ở miền Nam. Mặt khác, chính sách của tướng De Gaulle, từ năm 1962 sau khi phải trả độc lập cho Algérie) là cân bằng hoá phần nào quan hệ với miền Bắc. Theo ông De Quirielle, người được cử sang làm tổng đại diện Pháp ở Hà Nội, thì tướng De Gaulle đã dùng hình ảnh " không nên thoá mạ tương lai ". Bước đầu, Pháp nhận mở ở Paris một phái đoàn đại diện... thương mại của VNDCCH, đứng đầu là một nhà ngoại giao xa lạ với nghề buôn, ông Mai Văn Bộ. Song đổi lại, Paris muốn làm xẹp bớt phản ứng của Sài Gòn bằng một cử chỉ nhân nhượng. Trong khi đó, tương lai có vẻ tới gần thêm một bước với diễn biến tình hình ở miền Nam : tháng giêng năm 1963, chưa xảy ra cuộc đàn áp ở Huế, làm bùng nổ phong trào Phật giáo, nhưng đã diễn ra trận Ấp Bắc, làm rúng động bộ máy quân sự mà Hoa Kỳ đã dày công xây dựng (xem cuốn sách của Neil Sheehan, A Bright Shining Lie, Random House 1988 ; bản tiếng PhápL'Innoncence perdue, Seuil, 1990). Tương lai, trong nhãn quan của lão tướng De Gaulle, cũng là tiếp nối quá khứ : Pháp chuẩn bị lá bài ở miền Nam, cụ thể là với cựu thủ tướng Trần Văn Hữu. Cần thiết phải tập hợp chung quanh ông Hữu một nhóm trí thức trông được. Mà uy tín của Nguyễn Khắc Viện thì quá lớn. Một công đôi ba việc : trục xuất Nguyễn Khắc Viện vừa hạn chế hiệu năng đáng gờm của một cặp bài trùng Mai Văn Bộ & Nguyễn Khắc Viện, vừa dọn đường cho nỗ lực vận động chính trị tương lai của Pháp, vừa làm nguôi phản ứng của Sài Gòn trước việc Paris tiếp nhận đại diện của Bắc Việt Cộng Sản.
tho
Nhưng chẳng nên thoá mạ tương lai. Việc trục xuất bác sĩ Nguyễn Khắc Viện không công bố. Về phía chính phủ miền Bắc, công bố hay phản đối cũng không có lợi. Coi như nhà nước đón về nước một nhà trí thức tên tuổi, năm ấy đúng 50 tuổi, nhưng sức khoẻ yếu kém sau nhiều năm trọng bệnh. Thật sự, Ở Hà Nội, hầu như ai cũng nghĩ nên xếp anh Viện vào một cương vị, hay đúng hơn, một danh vị nào đó, song người ta chờ đợi rằng anh sẽ chẳng sống được thêm mấy năm tháng, với khí hậu miền Bắc và nhất là trong điều kiện vật chất thời đó.



Tháng 5.1963, sau 37 năm sống và hoạt động ở Pháp, Nguyễn Khắc Viện trở về Hà Nội. Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hoà (kể cả bộ trưởng y tế Phạm Ngọc Thạch, chuyên gia về phổi) cho rằng anh cần nghỉ ngơi, thu xếp để anh có thể sống nhẹ nhàng những năm cuối của đời mình ở quê hương, nên chỉ cử anh vào Uỷ ban liên lạc văn hoá với nước ngoài, một cơ quan bán chính thức, trực thuộc Bộ ngoại giao, mà chức năng là đối ngoại nhân dân. Ở cương vị này, khi sức khoẻ cho phép, nhà trí thức Việt kiều được quốc tế biết tiếng, có thể tiếp khách nước ngoài, đặc biệt là khách phương Tây, lúc đó cũng chẳng mấy ai vãng lai Hà Nội.
Ở cái tuổi tri thiên mệnh ấy (anh vừa đúng 50, theo giấy khai sinh, nhưng theo gia đình cho biết, thì hình như năm sinh thực sự của anh là 1915), có một điều Nguyễn Khắc Viện biết chắc, là anh chưa cần nghỉ, chưa muốn nghỉ. Thế là, trái với sự chờ đợi của mọi người, Nguyễn Khắc Viện bắt đầu một giai đoạn hoạt động không mệt mỏi.
Từ 1964 đến 1984, anh đảm nhiệm công việc giám đốc Nhà xuất bản ngoại văn, tổng biên tập báo Thư tín Việt Nam và tạp chí Nghiên cứu Việt Nam, hai tờ báo này xuất bản bằng tiếng Pháp và tiếng Anh.
Quãng đời công cộng này, mọi người đều biết cả, hay ít nhất đều có một định kiến, làm bằng những hình ảnh thường được phóng viên quốc tế nhắc đi nhắc lại trong những năm chiến tranh và sau đó : người phát ngôn bán chính thức của Hà Nội, nhà tuyên truyền năng nổ nhất của Bắc Việt, người đối thoại incontournable(không thể không gặp) của bất cứ nhà báo nào đến thăm Hà Nội dưới bom đạn.
Điều cần nói nằm ở đằng sau những hình ảnh giản lược ấy. Xin nêu hai điểm : một là phong cách, hai là quan điểm văn hoá.
Tìm đọc lại bản dịch chính thức bằng tiếng Pháp của các văn kiện ngoại giao, chính trị của miền Bắc trước năm 1963, chúng ta sẽ được gặp một thứ văn bia rất kỳ lạ, câu cú chữ nghĩa đúng là tiếng Pháp đấy, nhưng người Pháp đọc cứ như đọc một thứ ngôn ngữ gỗ (langue de bois), thuộc loại gỗ mun, gỗ trắc, nghe chối tai, chẳng ai hiểu nổi. Ưu điểm duy nhất của những văn bản này, là người thông thạo cả tiếng Pháp lẫn tiếng Việt đọc chúng, có thể ứng khẩu dịch lại ra tiếng Việt mà không mấy sai lệch. Tại sao có tình trạng ấy ? Không phải vì Hà Nội lúc đó không còn người giỏi tiếng Pháp. Các ông Nguyễn Mạnh Tường, Trần Đức Thảo không được giảng dạy và xuất bản, nhưng nhà cầm quyền vẫn sử dụng các ông trong việc dịch thuật, nhưng dường như chỉ để dịch ra tiếng Việt những tài liệu tham khảo, vì khi các ông dịch ra Pháp văn, người ta dịch lại ra tiếng Việt, thấy sai lệch hẳn đi, mà trong ngoại giao, sai một ly đi một dặm. Còn trong báo chí ngoại ngữ (lãnh vực mà người ta cấm cửa hai nhà học giả), tuy vẫn có những nhà báo Pháp học, nhưng số đông đều ít nhiều có vấn đề, không dính líu đến Nhân văn Giai phẩm thì cũng xét đi xét lại, nên cuối cùng, bài của họ, dù có viết thẳng bằng tiếng Pháp, cũng vẫn là thứ văn bia quái lạ nói trên, tây nó không hiểu thì kệ nó, tác giả không có vấn đề là được rồi.
Phong cách Nguyễn Khắc Viện đã tạo ra được một cuộc cách mạng nhỏ trong lãnh vực này. Anh đã tập hợp được một ê-kíp nhà báo và người dịch, để các bài Pháp ngữ, Anh ngữ thoát ra khỏi lối viết tắc trách.
Quan trọng hơn cả phong cách, là ý thức về tầm quan trọng của văn hoá. Giữa thập niên 1960, hiểu biết của thế giới bên ngoài về Việt Nam dường như chỉ thu hẹp vào những công trình của các nhà nghiên cứu Pháp chung quanh Trường Viễn Đông bác cổ trước năm 1945, thêm vào đó là mấy cuốn sách của Paul Mus, Philippe Devillers, Jean Lacouture, Bernard Fall. Song song với Thư tín Việt Nam tập trung nói về thời sự, tạp chí Nghiên cứu Việt Nam đã lần lượt đưa ra những số đặc biệt về lịch sử, văn học, dân tộc học, ngôn ngữ học Việt Nam mà ngày nay đọc lại, nhiều số vẫn còn nguyên giá trị. Thậm chí, nếu so sánh với nguyên tác tiếng Việt, ta có thể thấy người dịch đã có công tổng hợp, viết lại, làm tăng giá trị của nhiều bài viết.
Cũng trong những năm này, Nhà xuất bản Ngoại văn đã phát hành bản Kiều do Nguyễn Khắc Viện dịch ra Pháp văn (1965), và bộ Hợp tuyển Văn học Việt Nam(Anthologie de la littérature vietnamienne) do Nguyễn Khắc Viện và Hữu Ngọc chủ biên (nhà xuất bản Philippe Picquier vừa tái bản dưới tựa đề Mille ans de littérature vietnamienne). Nhờ bộ sách này, độc giả sử dụng tiếng Pháp và tiếng Anh có thể tiếp cận với gần 10 thế kỷ văn học Việt Nam. Khuyết điểm chính của bộ hợp tuyển này là sự vắng bóng của dòng văn học Tự lực Văn đoàn những năm 1930 (và cố nhiên, của các dòng văn học miền Nam từ sau 1955) : điều này, theo tôi biết, ra ngoài ý muốn của ban chủ biên, mà thuộc quyền quyết định của ông Trường Chinh.
Nhân đây, tôi cũng xin mở ngoặc để nói đôi điều về quan hệ giữa Nguyễn Khắc Viện và Trần Đức Thảo. Không ít người, kể cả người ở Hà Nội (xin bạn đọc đừng bỏ qua chữ ) đã lưu truyền tiếng đồn Nguyễn Khắc Viện cướp vợ Trần Đức Thảo Cũng như trong mọi lời đồn, ở đây có một hạt nhân thật : anh Viện đã lập gia đình với chị Nguyễn Thị Nhứt, nhà tâm lý học, cũng là Việt kiều cũ. Chị Nhứt trước đó đã ly hôn với anh Trần Đức Thảo. Cuộc ly dị này chủ yếu là do tính tình không hợp nhau, hoàn toàn xa lạ với kịch bản ly dị vì sức ép chính trị như đã từng xảy ra ở miền Bắc và các nước xã hội chủ nghĩa (có lẽ vì thực trạng này mà lời đồn kia đã trở thành thuận tai). Những người đã chăm sóc anh Thảo trong những tháng cuối đời anh ở Paris, và sau đó, đều có thể biết chị Nhứt vẫn tiếp tục chăm lo cho anh như thế nào. Riêng anh Viện, tưởng cũng cần nhắc lại vai trò quyết định của anh trong việc đưa ra nước ngoài từ năm 1966 những bài viết của Trần Đức Thảo để đăng trên tạp chí La Pensée, và sau đó được Editions Sociales xuất bản ở Pháp trước khi bản dịch tiếng Anh được xuất bản ở Mỹ. Nếu đám cưới của anh Viện là một scandale, thì cái scandale không nằm trong lời đồn nói trên, mà ở phong tục của Đảng cộng sản Việt Nam thời đó. Trong một cuộc họp chi bộ, đảng viên Nguyễn Khắc Viện đã bình thản thông báo là ông sẽ lấy vợ, và nhỏ nhẹ thêm : " Đây là tôi thông báo, chứ không phải xin phép chi bộ đâu nhé ". Ở cái thời mà đảng, công đoàn và hội Liên hiệp phụ nữ quản lý toàn bộ đời sống cá nhân, chặt chẽ hơn cả đại gia đình và những bà cô không chồng của thời phong kiến, đó quả là một thứ scandale. Cũng như lời tuyên bố của Nguyễn Khắc Viện trong một cuộc hội nghị : " Tôi tuân thủ kỷ luật Đảng, tôi tin tưởng ở Đảng, nhưng không tuyệt đối ".
Cũng dễ hiểu là sau năm 1975, Nguyễn Khắc Viện là một trong những đảng viên, khá sớm, đã lên tiếng báo động về những sai lầm : sai lầm của thời kỳ chủ quan, say sưa với chiến thắng, và sai lầm cơ bản hơn, bắt nguồn từ não trạng nông dân và chủ nghĩa Mao.
Bắt đầu là những lá thư và phát biểu nội bộ. Và mùa hè năm 1981, anh gửi một lá thư 7 điểm cho Quốc hội. Tôi không rõ đến nay đã có tờ báo nào công bố nguyên văn tiếng Việt của lá thư này chưa. Bản dịch tiếng Pháp có thể tìm thấy trong cuốn La bureaucratie au Vietnam (nhà xuất bản L'Harmattan, Paris 1983, tr. 115-119). Căn cứ vào những gì tôi nhớ được về lá thư mà anh đã cho tôi đọc tại nhà mấy ngày sau đó, tôi có thể bảo đảm đó là một bản dịch chính xác và trung thành.
Nhân đây, tôi xin kể lại diễn biến chi tiết, để sau này có thể hiểu được cung cách hành xử của Nguyễn Khắc Viện ở thời điểm ấy. Tôi từ Pháp về tới thành phố Hồ Chí Minh ngày 2.7.81, thì sáng hôm sau, đã được nghe nói tới lá thư Nguyễn Khắc Viện, và được biết có người đã mang được một bản vào thành phố. Tôi không đi tìm đọc, đợi mấy ngày sau ra Hà Nội sẽ lại thăm anh : đối với phần đông Việt Kiều ra Hà Nội, thì ghé qua 8 Nguyễn Chế Nghĩa thăm anh Viện là một chặng đường incontoumable. Đến đó, anh đưa cho tôi đọc hai trang giấy pơluya đánh máy chữ nhỏ, sau khi ra điều kiện: đọc tại chỗ, không ghi chép. Tôi nhận điều kiện này, hiểu rằng anh chưa muốn phổ biến ra nước ngoài.
Tôi hỏi anh : " Tại sao anh không gửi thư này cho Trung ương Đảng mà gửi cho Quốc hội ? ". Anh mỉm cười : " Phải đổi kiểu chứ ! " và giải thích ngoài bản còn giữ trong nhà, anh đã đánh máy ra một số bản, gửi cho : Văn phòng Quốc hội, chị Hoàng Xuân Sính (Việt kiều cũ, đại biểu Quốc hội), ông Nguyễn Văn Hiếu (bộ trưởng văn hoá, về danh nghĩa là thủ trưởng của anh), và chi bộ cơ quan. " Thế thôi. Tổng cộng khoảng 20 người trực tiếp đọc ". Từ đó, lá thư đã được đánh máy, chép tay, nhân lên nhanh chóng, mặc dầu hồi ấy, máy photocopy chưa xuất hiện ngoài phố, và ít cơ quan có máy.
Bộ máy cầm quyền, cụ thể là bộ máy tổ chức và công an dưới trướng ông Lê Đức Thọ, tất nhiên khá căm anh Viện sau lá thư này. Nhất là nửa năm sau, khi tuần báo FEER (Tạp chí kinh tế Viễn Đông) dành một trang nói về bức thư và tác giả. Và đài BBC trích dịch dài trong chương trình Việt ngữ, ba tuần trước ngày họp Đại hội V của ĐCS.
Hai tháng sau, tháng 5.82 tôi về Hà Nội (đó cũng là lần chót), được biết anh chuẩn bị về hưu. Cũng ở thời điểm 81-82, sau này chúng ta biết ông Hoàng Minh Chính đã đưa đơn kiện đích danh công dân Lê Đức Thọ và đã trả giá bằng mấy năm tù giam và quản chế. Ông Lê Đức Thọ là người thực tế, biết sức nặng của dư luận quốc tế : điều này giải thích phần nào sự khác biệt trong cách xử lý hai trường hợp.
Từ đây trở đi, thái độ của lãnh đạo ĐCS đối với Nguyễn Khắc Viện sẽ dao động giữa hai thái cực mà ứng xử của tổng bí thư Nguyễn Văn Linh là tiêu biểu. Tháng 10.1987, trong cuộc gặp văn nghệ sĩ, cuộc gặp trong đó ông Linh kêu gọi các nhà văn " bất luận thế nào cũng không nên bẻ cong ngòi bút ", sau khi nghe Nguyễn Khắc Viện phát biểu, ông Linh đã bắt tay nồng nhiệt và xin toàn văn bài viết để về đọc kỹ. Chưa đầy hai năm sau, tháng 9.89, trong một hội nghị cán bộ trung cao cấp để phổ biến nghị quyết mới, cũng chính ông Linh lớn tiếng chỉ trích " tay Nguyễn Khắc Viện nay lại đi ca ngợi dân chủ tư sản ".
Về phần mình, Nguyễn Khắc Viện tiếp tục phát biểu ý kiến của mình một cách công khai, hoặc qua những lá thư (như thư gửi Luật sư Nguyễn Hữu Thọ, chủ tịch Mặt trận Tổ Quốc, tháng 1 năm 1991), bài báo (như bài Cuộc kháng chiến mới, mà Diễn Đàn đã đăng toàn văn). Khi ông Hoàng Minh Chính bị bắt mùa hè năm 1995, anh đã bày tỏ cảm tình và sự kính trọng đối với ông qua một lá thư gửi bà Hoàng Minh Chính.
Vài năm gần đây, sức khoẻ suy sụp, mùa đông anh chị thường vào thành phố Hồ Chí Minh để tránh cái lạnh buốt của khí hậu Hà Nội, nhưng ở đâu, anh cũng ít khi ra khỏi nhà, tập trung sức lực còn lại cho công việc của N-T, trung tâm nghiên cứu tâm lý trẻ em, tổ chức phi chính quyền đầu tiên mà anh đã thành lập sau khi về hưu. Anh ít tiếp khách, và cũng phải nói thật, khách tới thăm ít hay nhiều cũng thay đổi tuỳ theo nhiệt độ chính trị chung quanh anh. Vài tuần trước khi từ trần, nhân dịp có đông đủ gia đình và một số bạn thân tới thăm, được biết anh đã nói 3 điều, có thể coi như những ước nguyện cuối cùng :
Một là, mong rằng Trung tâm N-T tiếp tục hoạt động vì lợi ích của thiếu nhi và thiếu niên.
Hai là, mong rằng xã hội công dân Việt Nam sẽ tiếp tục tự khẳng định và triển khai, làm nền móng cho công cuộc dân chủ hoá đất nước.
Điều cuối cùng, nhân dịp này, anh cũng nói rõ trong thập niên vừa qua, vì hoàn cảnh của anh Nguyễn Kiến Giang (hiện nay còn bị án treo 15 tháng tù trong vụ án Lê Hồng Hà & Hà Sĩ Phu), anh Viện đã nhận đứng tên một số tác phẩm của anh Giang (trong đó có cuốn Cách mạng 1789 và chúng ta, nxb TP. Hồ Chí Minh, 1989, Từ điển Xã hội học, nxb Thế giới 1994...). Trước khi mất, anh muốn minh xác điều này để tác quyền tinh thần được trả về cho tác giả. Trên đây là một vài điều tôi được biết hoặc thu lượm và kiểm tra được về con người và cuộc đời Nguyễn Khắc Viện, để bổ sung vào những bài viết đã được công bố trên báo chí trong nước. Vì vậy, tôi chỉ tập trung vào những điểm mà các tác giả ít biết hoặc chưa tiện viết ra.

Thứ Năm, 24 tháng 5, 2012

Gã si tình nặng nghiệp cầm ca

Đây là hồi ký của Bác Bảy Bá được Báo Người Lao động đăng tải từ ngày 21/05/2012. Trong hồi ký này có rất nhiều thông tin quý giá về nền nghệ thuật cải lương mà tôi muốn lưu giữ để làm sườn cho các tư liệu về cải lương sau này.


Gã si tình nặng nghiệp cầm ca

Thứ Hai, 21/05/2012 22:37

L.T.S: Viết kịch bản lăng xê Thanh Nga; sáng tác “Tình anh bán chiếu” dành cho Út Trà Ôn; phát hiện, đào luyện “Tư Ếch” Văn Hường, “Chàng là ai” Lệ Thủy, “Mai Đình” Kim Ngọc… Những nội dung trong loạt bài này của soạn giả - NSND Viễn Châu cũng là một phần cuốn hồi ký mà ông sẽ ra mắt nay mai.

Chuyến xe định mệnh
Không biết vì sao NSND Năm Châu thường gọi tôi là “tía nó”. Mãi đến giờ, tôi vẫn còn hối hận vì chưa lần nào có cơ hội “tra cứu” cách gọi thân thương và ngộ nghĩnh này của anh

Nghệ sĩ Kim Cúc và NSND Năm Châu trong vở Vợ và tình. Ảnh do nghệ sĩ Hồng Dung cung cấp
Một thân, một mình, tôi lên Sài Gòn năm 1943, khi vừa 19 tuổi, bỏ lại sau lưng quá khứ say mê đờn ca tài tử. “Bảo bối” hiểu biết về nghề hát của tôi chỉ là những dịp được xem các gánh ùa về làng sau mùa gặt. Nhờ ba tôi là hương cả xã Đôn Châu (nay thuộc huyện Trà Cú - Trà Vinh) nên anh em nhạc công, nghệ sĩ, cả mấy ông bầu đều được mời đến nhà đờn ca, ăn uống no say. Tôi có dịp lân la làm quen, học lóm các ngón đờn. Vậy đó, mê riết rồi tôi quyết định ra đi...
Bước vào đam mê
Đến Sài Gòn, tôi tá túc nhà anh bạn trên đường L’Eglise (nay là Trần Bình Trọng, quận 5 - TPHCM) rồi hỏi thăm, tìm đến nhà nhạc sĩ Jean Tịnh, Trưởng Ban Cổ nhạc Đài Phát thanh Sài Gòn, phụ trách chương trình cổ nhạc mà ở Trà Vinh ngày nào tôi cũng lắng nghe. Gặp tôi, anh hỏi: “Chú em biết đờn cây nào?”. “Dạ, cây nào em cũng học được một chút nhưng có lẽ rành đờn tranh”. “Vậy đờn thử coi”.
Tôi đờn bản Nam Xuân. Lúc đó, tôi không tính chuyện người ta có nhận mình hay không, chỉ nghĩ đến một ngày không xa, ba mẹ tôi nghe được tiếng đờn của Bảy Bá trên sóng radio nên bài bản réo rắt, khoan thai. Nhạc sĩ Jean Tịnh chấp thuận ngay. Tôi được thu nhận vào ban nhạc toàn những danh cầm đương thời: Jean Tịnh (violon), Chín Hòa (kìm), Bảy Hàm (cò), Hai Biểu (tranh), Hai Thanh (kìm) và tôi (tranh). Danh ca thời đó ở đài là những giọng hát mà tôi mê mỗi khi nghe radio, nay được ngồi đờn để họ ca thì còn gì sung sướng cho bằng: Năm Cần Thơ, Ba Vĩnh Long, Ngọc Nữ, Tư Bé (Kim Danh)…
NSND Năm Châu và NS Kim Hoàng trong vở Vợ và tình (quay Đài Truyền hình Sài Gòn năm 1964) (ảnh do NS Hồng Dung cung cấp)
Một hôm gặp nhau, anh Mười Còn, một nhạc sĩ mà tôi may mắn quen biết, nhấn mạnh: “Gánh anh Năm Châu chuẩn bị lưu diễn cuốn chiếu từ đây ra Hà Nội hát dài hạn, chú đi không?”. Tôi nghe mà như mở cờ trong bụng vì đờn ở đài hoài cũng chán, không mở mang nghề nghiệp gì được. Tôi dọ hỏi: “Sao anh Mười lại kêu tôi?”. “Sáu Quý đờn tranh của gánh anh Năm vì bệnh không thể đi theo”.
Hai ngày sau, chuyến xe lửa chở Đoàn Việt kịch Năm Châu đi từ tỉnh này qua tỉnh nọ, hát ở điểm nào cũng đông. Đó là lần đầu trong đời tôi được đi xe lửa ra tới tận Hà Nội, thấy cuộc đời của một thanh niên 19 tuổi sao đáng yêu đến vậy. Trước mặt là một chân trời mới mà tôi sẽ học hỏi, khám phá nhiều điều mới lạ cho ngón đờn của mình...

NSƯT Út Bạch Lan ca bài Hoa lan trắng do NSND soạn giả Viễn Châu viết về

cuộc đời của bà trong đêm Vinh danh ông do TTVH quận 5 tổ chức năm 1989
Ở gánh Năm Châu, kỹ thuật, lề lối đâu ra đó. Anh Năm là người dễ gần gũi, có ánh mắt sáng rực và nụ cười chân thành. Nghe tôi đờn, anh thường biểu hiện sự đồng cảm bằng cách gật đầu rồi rít một hơi thuốc. Tôi nghe danh anh Năm khá lâu. Không ở đâu xa, ngay trong ban nhạc cổ Đài Phát thanh Sài Gòn, hễ nhắc tới tên anh (tác giả Nguyễn Thành Châu), ai cũng nể. Tiếng lành về một người tài giỏi trong giới được truyền xa và tôi luôn khao khát có dịp gặp anh. Thì nay, tôi đã ngồi trong ban nhạc cổ của gánh hát anh Năm, diễn suốt 2 tháng rưỡi từ Sài Gòn ra Hà Nội.
“Cặp đôi hoàn hảo”
Năm 1923, anh Năm Châu đã là kép chánh sáng giá nhất của ban cải lương thầy Năm Tú ở Mỹ Tho. Anh là người tài giỏi, có ý chí và luôn nhìn xa trông rộng, nắm bắt tình thế để ứng biến cho nghề, cho sân khấu một cách thần thông. Thế nhưng, anh lại không đoán được số phận long đong của con tim mình, mà có lẽ đây cũng là cái bệnh chung (khó trị) của giới nghệ sĩ.
Năm 1925, khi kép Hai Giỏi, con của bầu Hai Cu - gánh Nam Đồng Ban, mất do bạo bệnh, anh Năm được mời về thế vai. Đào chánh hát cặp với anh là chị Bảy Phùng Há, lúc đó cũng được mời về hát thế cho cô Năm Phỉ (chị NSND Bảy Nam, dì NSND Kim Cương), buồn vì chồng là nghệ sĩ Hai Giỏi mất đã bỏ đi biền biệt. Hai người tài Năm Châu - Phùng Há nhanh chóng trở thành “cặp đôi hoàn hảo” vì xứng đào, xứng kép. Nam Đồng Ban phất lên đến đỉnh huy hoàng.
Theo tâm sự của Năm Châu sau này, mối tình chớm nở giữa anh và chị Bảy Phùng Há đã bị chia cắt khi xuất hiện nhạc sĩ Tư Chơi. Năm 1927, chị Bảy thành hôn với nhạc sĩ này. Anh Năm buồn tình bỏ Nam Đồng Ban để qua đoàn Trần Đắc. Tôi còn nhớ anh kể với giọng trầm buồn, đôi lúc nghèn nghẹn: “Tía nó biết không, tôi hay tin cô Bảy chia tay với Tư Chơi khi Bửu Chánh (con gái NSND Phùng Há) mới 3 tuổi. Cô về gánh Huỳnh Kỳ của Bạch Công Tử (Phước George), muốn làm bầu để trả đũa Tư Chơi phụ mình mà theo cô đào Kim Thoa. Biết chuyện, tôi muốn rời đoàn Trần Đắc để về gánh Huỳnh Kỳ thì ông bầu Trần Đắc Nghĩa đã kẹp công tra (hợp đồng) nên không xoay xở kịp. Một lần nữa, tôi trễ tàu nhìn cô Bảy sánh duyên với Bạch Công Tử”.

NS Hữu Phước và NS Chí Hiếu trong vở Nát cánh hoa rừng - tác phẩm đầu tay của soạn giả Viễn Châu được quay truyền hình năm 1968
Tôi biết ở gánh Trần Đắc, anh Năm đã hát cặp với cô đào chánh Sáu Trâm. Anh Năm đã bỏ ra biết bao công phu để đào tạo cô đào trẻ này trở thành một ngôi sao sáng rực, sau đó họ thành hôn. Rồi ngang trái lại phủ trái ngang. Gánh Trần Đắc chiêu mộ thêm nhiều cô đào trẻ: Tư Sạng xuất hiện, nổi danh với anh Năm qua vở Lỡ tay trót đã nhúng chàm; Sáu Ngọc Sương nổi lên cùng anh qua Một tối tân hôn; cô Thanh Loan bừng sáng với anh qua Hồn bướm mơ tiên; rồi cô Năm Phỉ khi đã nguôi ngoai, quay về hát với anh cũng được khen ngợi qua Huyền Châu Nữ, Túy Hoa vương nữ... Lúc này, cô Sáu Trâm ghen tức, cho rằng anh Năm o bế mấy cô đào, nhất là có “tình ý” với Tư Sạng. Đang trong đêm hát, cô Sáu Trâm rời đoàn trong sự ngơ ngác của các nghệ sĩ.
“Tía nó biết không, chuyện gì tới đã tới. Tôi gá nghĩa với Tư Sạng, sinh con đẻ cái thì bên kia, cô Bảy đã chia tay Bạch Công Tử, gánh Huỳnh Kỳ rã trong mùng 2 Tết” - giọng anh Năm nặng trĩu nỗi lòng. Anh Năm ở với cô Tư Sạng có 5 người con. Năm 1948, anh chung sống với người vợ thứ ba là chị Kim Cúc, con gái của kịch sĩ tiền phong Bảy Nhiêu (Huỳnh Năng Nhiêu) và có thêm 6 người con…

Gã si tình nặng nghiệp cầm ca: Kho báu đầu đời

Thứ Tư, 23/05/2012 10:05

Tôi ôm xấp kịch bản, lật từng trang bản thảo. Những ghi chú cẩn thận của anh Năm Châu là cả một kho báu mà tôi đang muốn tìm chìa khóa để mở ra, để “vơ vét” cho thỏa lòng ham thích

“Chú phải theo tôi về Trà Vinh, không sống cái kiểu rày đây mai đó được” - giọng anh Huỳnh Thanh Tòng, anh Sáu của tôi, cương quyết. Dù nể anh nhưng đụng đến nghề mà tôi si mê, tôi vẫn cãi: “Anh về trước đi, mai tui về”. Anh Năm Châu lên tiếng: “Thôi, tía nó về quê đi, đừng để ba mẹ buồn”.

Sang trọng, quý phái

Xách cây đờn lên, tôi ngậm ngùi hẹn anh Năm Châu: “Rồi tui sẽ tìm anh”. Tôi chỉ kịp nhìn đôi mắt sáng rực và nụ cười quen thuộc của anh. Cũng dáng vẻ đó hôm nào đã ban cho tôi niềm vui sướng khi một thanh niên còn quá trẻ, có chút năng khiếu về đờn tranh, từ dưới Trà Vinh lên Sài Gòn lập nghiệp đã được anh nhận vào Đoàn Việt kịch Năm Châu.

Anh Năm thường nhận xét: “Tía nó đờn hay lắm”. Tôi rất mừng vì anh khen chân thành và động viên, khích lệ. Trong tuồng Hoa rơi cửa Phật (Trần Hữu Trang viết dựa theo tác phẩm Tắt lửa lòng của Nguyễn Công Hoan, sau đổi là Lan và Điệp), lúc Lan xuống tóc đi tu có ca bài Tứ đại oán, anh Năm đề nghị: “Tía nó nhấn cho đúng chữ và tui chỉ muốn nghe mỗi tiếng đờn tranh của tía nó ở lớp này”. Quả thật, lớp diễn ấy hiệu quả vô cùng.


NSND Bạch Tuyết chúc mừng 3 nghệ sĩ đoạt giải Thanh Tâm năm 1964: Diệp Lang, Thanh Sang, Lệ Thủy (ảnh tư liệu)

Vở Khi người điên biết yêu (anh Năm Châu viết với Trần Hữu Trang, Lê Hoài Nở) có 30 câu vọng cổ, 16 bài bản, 4 ngâm lối và chủ yếu là thoại kịch. Tôi được anh Năm rót vào hồn những câu thoại mang tính văn học. Cải lương sang trọng, quý phái là từ anh mà ra!

Tôi ôm xấp kịch bản của chuyến lưu diễn cùng Đoàn Việt kịch Năm Châu, lật từng trang bản thảo được gạch nhịp chính xác mỗi câu xuống xề, xuống hò. Những ghi chú cẩn thận của anh Năm là cả một kho báu mà tôi là kẻ đang muốn tìm chiếc chìa khóa để mở ra, để “vơ vét” cho thỏa lòng ham thích.

Mẹ vẫn đợi con về

Ngày lên Sài Gòn, tôi chỉ có bộ quần áo dính da, đôi dép và cây đờn, nay về cũng vậy nhưng có thêm gia tài là những kịch bản mà anh Năm Châu cho và cây đờn tranh chở nặng nỗi lòng của một chàng trai Đôn Châu có máu phiêu lưu.

Gặp lại tôi, mẹ khóc, ôm tôi rầy: “Sao bây đi mà không xin phép, ba giận”. Tôi khoanh tay, quỳ xuống: “Thưa ba mẹ, con sai rồi”. Ba định rầy điều gì đó nhưng thấy mẹ tôi khóc quá nên bỏ vô buồng. Mấy chị lôi tôi đi chỗ khác.

Soạn giả Viễn Châu (bìa phải) và các nghệ sĩ trong Đoàn Việt kịch Năm Châu (Ảnh tư liệu của NSND Viễn Châu)
Buổi cơm chiều hôm đó thật nặng nề... Bỗng dưng, ba tôi lên tiếng: “Bây theo gánh hát, người ta đối đãi đàng hoàng không?”. Tôi bèn thưa hết mọi chuyện. Chẳng những không rầy la mà ba còn kêu tôi đờn vài bản cho ông nghe, coi tôi đã học được thứ gì. Đó là lần đầu trong đời và cũng là lần duy nhất, tôi đờn cho ba mẹ nghe.

Cố NS Văn Ngà, NS Khánh Tuấn và NSƯT Hùng Minh trong vở Tiếng trống Mê Linh (ảnh Thanh Hiệp)

Tối đó, mẹ ngồi dưới ánh trăng ngoài sân chải tóc. Chị Năm khều tôi: “Chú đi xa, đêm nào mẹ cũng ra đó ngồi tới khuya mới chịu vô ngủ, ba hỏi thì mẹ nói đợi chú về”. Tôi khóc, biết mình đã làm cho mẹ phải buồn vì thương nhớ. Mẹ luôn sống nội tâm, không dám thốt lên lời vì ba tôi rất nghiêm nghị nên mỗi lần nhớ con, bà chỉ để cho ánh trăng hiểu được... Hình ảnh và tâm tư của người mẹ ngồi chờ con về trong đêm được tôi đưa vào bài ca cổ Mẹ vẫn đợi con về, sau này NSND Ngọc Giàu đã diễn đạt đúng tâm trạng của tôi ngày đó.

Vở đầu tay: Hồn dân tộc

Ở nhà được hơn một năm, tôi theo anh Sáu gia nhập Đội Thanh niên Tiền phong của làng. Lâu nay, hầu hết các bài báo viết về tôi đều cho rằng kịch bản Nát cánh hoa rừng là tác phẩm đầu tay nhưng ít ai biết vở đầu tiên tôi viết là Hồn dân tộc.


NS Tấn Tài và Ngọc Giàu trong vở cải lương Cô gái Đồ Long (ảnh tư liệu)
Anh Sáu vốn hăng hái lắm, tích cực kêu gọi nhân dân đứng lên chống Pháp. Tôi theo anh làm nhiều việc, như in truyền đơn, chuyển vũ khí... Rồi anh bị giặc bắt, bị tra tấn dã man nhưng đã tự ải để che giấu bí mật của Đội Thanh niên Tiền phong. Anh tôi đã ra đi theo tiếng gọi của hồn dân tộc. Nhân vật trong kịch bản đầu tay của tôi, một chiến sĩ trẻ quyết hy sinh để bảo vệ xóm làng, chính là viết về anh trai mình.


NS Thanh Loan, NSND Bạch Tuyết, NSND Ngọc Giàu và NSƯT Ngọc Đáng trong chương trình tôn vinh soạn giả Viễn Châu do Nhà hát CL Trần Hữu Trang tổ chức năm 2008 (ảnh Thanh Hiệp)
Chiến sự nổi lên, giặc đốt cháy cả làng tôi. Anh rể tôi bị bắn chết, rồi anh Sáu mất, gia đình lâm cảnh ly tán, ba giục tôi phải trốn đi. Một lần nữa, tôi lạy từ ba mẹ, chia tay các chị rời khỏi làng quê. Họ tên Huỳnh Trí Bá mà ba mẹ đặt cho tôi được thay bằng ba chữ lạ xa: Trương Ánh Truyền.

Điểm tới của tôi trong chặng đường phiêu bạc mới không phải Sài Gòn mà là Vĩnh Long. Ở Vĩnh Long, hằng ngày tôi dò la gánh hát của anh Năm Châu. Biết anh đang ở Đoàn Cải lương Con Tằm, tôi vội tìm đến


Hai năm lao tù

Trong Đoàn Con Tằm có một đội tuyên truyền cách mạng do anh Năm Châu và soạn giả Trần Hữu Trang lãnh đạo. Sau này, tôi mới biết đoàn không chỉ in ấn truyền đơn mà còn vận chuyển vũ khí cho anh em trong khu kháng chiến.

Một dạo đoàn nghỉ hát, tôi về phụ anh bạn là tài xế xe khách chạy lục tỉnh xé vé mỗi sáng. Một bữa đang đi đến chợ Bình Tây, đột nhiên xe thắng gấp, lính Pháp sấn lại. Một thanh niên là khách thường xuyên đi lục tỉnh vội ôm giỏ bỏ chạy. Lính Pháp bắn anh ngã gục, rồi lục trong giỏ thấy 6 quả lựu đạn. Hóa ra, anh là người vận chuyển vũ khí cho khu kháng chiến.

Lính Pháp lôi tôi cùng 3 người trên xe về bót Catinat. Tôi bị chúng treo ngược lên đánh, giam 18 ngày nhưng không khai thác được gì vì thực tế, tôi có biết gì đâu! Giai đoạn này, anh Năm Châu muốn thử thách tôi nên chưa giao nhiệm vụ. Sau đó, chúng giải tôi về nhà tù Cẩm Giang - Tây Ninh giam 2 năm.
Đến năm 1949, chúng phải trả tự do cho tôi. Về Sài Gòn, một lần nữa tôi đổi họ tên thành Trương Văn Bảy…

Gã si tình nặng nghiệp cầm ca: Lăng xê Thanh Nga

Thứ Năm, 24/05/2012 00:59

Tiếng lành đồn xa, lại có thêm sự cộng hưởng từ lời giới thiệu uy tín của anh Năm Châu và chị Kim Cúc, tôi được “bà bầu của các ông bà bầu” Nguyễn Thị Thơ mời về viết tuồng cho Đoàn Thanh Minh - Thanh Nga


NSƯT Thanh Nga lúc sinh thời. Ảnh tư liệu của NSND Viễn Châu
Năm 1950, tôi mới trở lại gặp anh Năm Châu, lúc đó gánh hát Con Tằm đã đổi bảng hiệu là Đoàn Việt kịch Năm Châu. Lúc này, đoàn có thêm các nghệ sĩ (NS): Văn Lang, Hoàng Kinh, Ngọc Đán, Thừa Vĩnh, Văn Lâu, Ba Thâu, Sáu Huề…
Cải lương Thật và Đẹp
Ngày tôi về, Đoàn Việt kịch Năm Châu bắt đầu diễn các tuồng: Dân chúng trước pháp luật, Tuyết băng và bạo lực, Cách Lan Phương Tử, Gió ngược chiều… Anh Năm Châu lấy tích tuồng từ các sách truyện của Pháp, Anh để chuyển thể cải lương và bắt đầu khai sáng trào lưu cải lương Thật và Đẹp.
Một lần, thấy tôi mân mê cuốn tuồng của anh, lật tìm những bài bản để gạch nhịp rồi lẩm bẩm ca, Năm Châu hỏi: “Tía nó có thích viết tuồng không?”. Thấy tôi gật đầu, anh nói: “Sao tía nó không thử?”. “Tui có thích nhưng nghĩ mình không đủ sức”. “Chưa thử sao biết không đủ sức. Tía nó rành bài bản, có khiếu văn chương, bước đời ít nhiều đã trải qua sóng gió... Viết đi, tui sẽ góp ý” - anh khích lệ.
Chính anh Năm Châu đã cho tôi niềm tin vào khả năng để tự tin thử sức. Tôi đi theo chủ trương của anh - sân khấu cải lương phải thật và đẹp. Điểm tựa của tôi là đọc và biết chắt lọc những nét đẹp từ tiểu thuyết văn chương. Tôi say mê đọc những tác phẩm của các tác giả nổi tiếng và tập hành văn theo sự tinh túy mà mình chắt lọc được. Từ kho tàng này, tôi đem vào kịch bản, đưa vào bài ca vọng cổ, cố gắng nâng chất văn học lên để những tinh hoa đượm thêm hồn quê, rứt tim nhỏ máu mà đi vào lòng công chúng mộ điệu.
Kịch bản đầu tay ở giai đoạn chuyên nghiệp mà tôi đã viết là Nát cánh hoa rừng. NS Kim Cúc lúc đó đóng vai chánh, anh Năm Châu đọc rồi cho hát liền, không sửa một chữ, còn vỗ vai tôi khen: “Tía nó viết được đó, tiếp đi!”.
“Tía nó” ra riêng
Tôi quyết định đổi nghệ danh Viễn Châu từ ngày khai trương vở Nát cánh hoa rừng. Tôi nghĩ mình mang thân viễn xứ, lìa quê cha, đất mẹ đi bôn ba khắp nơi, chữ “Viễn” để nói lên nỗi lòng của một kẻ vì hoàn cảnh, thời cuộc mà phải xa nhà, ghép với chữ Châu - Đôn Châu, nơi chôn nhau cắt rốn - để làm nghệ danh sáng tác. Hồi đó ở Sài Gòn, người trong nghề luôn nhắc đến bộ ba danh cầm: Năm Cơ, Văn Vỹ và Bảy Bá nhưng chỉ mỗi mình tôi rẽ sang nghề sáng tác.


Cố NSƯT Thanh Nga, NSND Phùng Há và NS Hữu Phước trong vở Đời cô Lựu (ảnh Huỳnh Công Minh)
Sau Nát cánh hoa rừng, tôi có động lực để viết thêm nhiều tuồng trên sân khấu Đoàn Việt kịch Năm Châu: Con Tấm - con Cám, Đường ra biên ải, Bến đò ma, Hờ hững ai xui thiếp phụ chàng… NS Kim Cúc khoái cách hành văn trong bài vọng cổ của tôi, bảo chỉ đọc qua một lần là thuộc làu, rằng dường như tôi “đi trong gan, trong ruột của người ca”. Tôi thì nghĩ khác, chính vì cái tên Viễn Châu đã khiến tôi phải tự trọng với ngòi bút của mình.
Năm 1955, tôi đã có được tên tuổi, được anh em NS tín nhiệm, uy tín ngày càng khẳng định. Các hãng dĩa và bầu đoàn tìm tới mời tôi về ký công tra (hợp đồng) làm tác giả thường trực. Thấy tôi còn phân vân, anh Năm Châu vỗ vai: “Tía nó ra riêng đi, đã tới lúc phải tự đứng mà tung hoành cái tài của mình”. Tôi rất mừng và cảm động.
Tạo cú đột phá cho Thanh Nga
Chia tay Đoàn Việt kịch Năm Châu, tôi về cộng tác với Đoàn Kim Thanh - Út Trà Ôn. Tôi đã sáng tác kịch bản Tình vương hoa thắm khai trương đoàn này, có các đào, kép tham gia: Út Trà Ôn, Kim Chưởng, Thanh Tao, Thúy Nga. Sau đó, tôi sung sức viết hàng loạt vở tuồng lấy chuyện xưa nói chuyện nay: Viên ngọc rắn thần, Bèo dạt mây trôi, Tình anh lính chiến, Hoa rụng giữa thiền môn, Dưới bóng Phật đài…


Cố NSƯT Thanh Nga (ảnh do SG Viễn Châu cung cấp)
Tiếng lành đồn xa, lại có thêm sự cộng hưởng từ lời giới thiệu uy tín của anh Năm Châu và chị Kim Cúc, tôi được “bà bầu của các ông bà bầu” Nguyễn Thị Thơ - thân mẫu của cố NSƯT Thanh Nga và danh hài Bảo Quốc - mời về viết tuồng cho Đoàn Thanh Minh - Thanh Nga. Bầu Thơ là người trọng dụng soạn giả, chủ trương trả lương tháng để anh em yên tâm. Lúc này, tôi đã viết các tuồng mà số lượng vé bán được xem là kỷ lục: Người yêu của hoàng thượng, Yêu nữ thần, Thiên thần trên thiết mã, Người nữ cứu thương, Tình nở Đào hoa thôn, Kiếp hoa tàn…


NSƯT Thanh Nga chúc mừng HCV triển vọng Thanh Tâm 1966 - NS Phượng Liên (ảnh do NS Phượng Liên cung cấp)
Khán giả đến xem Đoàn Thanh Minh - Thanh Nga thường mang theo về những câu ca mà tôi viết. Nghĩ cũng vui! Các đào, kép chánh của Đoàn Thanh Minh - Thanh Nga thời đó gồm: Thành Được, Út Bạch Lan, Thanh Nga cùng dàn bao hát vai phụ toàn là những NS thượng thặng: Ba Vân, Hoàng Giang, Kim Giác, Trường Xuân, Văn Ngà, Ba Xây…



Hoa Mộc Lan. Sáng tác: Viễn Châu

Khi tôi về đoàn, để tạo cú đột phá cho Thanh Nga sau khi cô đã đoạt HCV giải Thanh Tâm năm 1958, bà bầu Thơ đã đặt hàng tôi phải viết các kịch bản lăng xê con gái bà. Vì thế, tôi đã sáng tác Hoa mộc lan, Chuyện tình Hàn Mạc Tử…

Sống mãi những danh hiệu

Trong giới nghệ thuật cầm ca, nghệ danh được khán giả đặt tức là lộc của Tổ ẩn ý ban tặng cho đứa con cần cù, chăm chỉ, được bà con thương. Không ít danh hiệu mà khán giả tặng cho NS sống mãi cho tới ngày nay: Đệ nhất danh ca Út Trà Ôn, Hoàng đế dĩa nhựa Tấn Tài, Ông hoàng cải lương Thành Được, Hoàng tử sân khấu Minh Phụng, Đệ nhất đào thương Thanh Hương, Sầu nữ Út Bạch Lan, Kiều nữ Bích Sơn, Kỳ nữ Kim Cương, Vua vọng cổ hài Văn Hường, Vua xàng xê Minh Chí, Vua Tao Đàn Thanh Hải, Giọng ca lụa trải nhung căng Ngọc Giàu, Giọng ca thánh thót chuông ngân Lệ Thủy, Nữ quái kiệt Kim Ngọc, Khôi nguyên Vọng cổ Minh Vương, Cải lương Chi bảo Bạch Tuyết… mà tôi sẽ lần lượt đề cập trong hồi ký của mình.

Gã si tình nặng nghiệp cầm ca: Út Trà Ôn và Tình anh bán chiếu

Thứ Năm, 24/05/2012 22:04

NSND Út Trà Ôn khi đã chơi thì ngông lắm nhưng hễ làm nghề là hết mình

Năm 1959, “đệ nhất danh ca” Út Trà Ôn kết thúc hợp đồng độc quyền ở hãng dĩa Hoành Sơn, về đầu quân cho hãng dĩa Hồng Hoa. Bà chủ hãng dĩa này kêu tôi tới bàn: “Anh Bảy nè, anh Mười chịu ký hợp đồng độc quyền với hãng mình rồi, vậy anh mau viết bài ca để thu, phải làm cho thị trường náo động”.
“Hoàng đế vọng cổ”
Tôi lục trong trí nhớ, tìm kiếm lại những mẩu chuyện đời mà mình đã tích lũy trong cả mớ nỗi niềm của người nghệ sĩ (NS). Tôi chợt nhớ một lần đi từ Bạc Liêu về Sài Gòn, tới chợ Phụng Hiệp thì xe hơi hư máy, phải đậu lại sửa. Khi ngồi nghỉ, tôi thấy một anh chàng ôm đôi chiếu bông đứng mệt nhọc giữa trưa nắng như chờ ai trước một căn nhà đóng kín, xa xa lại có một đám cưới.


NSND Út Trà Ôn (phải) và NSND Viễn Châu thời trai trẻ. Ảnh tư liệu của NSND Viễn Châu

Nhân đây, tôi cũng xin nói rõ về chất liệu hình thành câu chuyện Tình anh bán chiếu, bởi một số tờ báo trong và ngoài nước đã hư cấu quá đà. Khi đó, tôi chỉ nhìn chứ chưa hề nói chuyện với anh bán chiếu câu nào. Một số báo bịa ra chuyện tôi đến hỏi thăm, rồi mới biết anh từ Cà Mau đem chiếu lên Phụng Hiệp giao nhưng cô chủ nhà đi đâu mất biệt.

Chuyện chỉ có vậy nhưng với con mắt của người viết, tôi nhìn anh bán chiếu và nghĩ ngay đến một mối tình, rồi tự hỏi tại sao mình không cho anh bán chiếu mang tâm trạng hụt hẫng trước một tình yêu đơn phương? Thế rồi, tôi đã viết liền 4 câu hò khi nghĩ tới “món nợ” với anh Mười mà mình đã nhận với bà chủ hãng dĩa: Hò ơi, chiếu Cà Mau nhuộm màu tươi thắm/ Công tôi cực lắm mưa nắng dãi dầu/ Chiếu này tôi chẳng bán đâu/ Tìm cô không gặp/ Hò ơi, tìm cô không gặp tôi gối đầu mỗi đêm.


NSND Út Trà Ôn và NSND Viễn Châu (ảnh do NSND Viễn Châu cung cấp)
Tôi đã viết kịp bài vọng cổ Tình anh bán chiếu để anh Mười thu dĩa. Hồi đó, báo giới Sài Gòn đã phong cho anh Mười là Hoàng đế vọng cổ khi dĩa Tình anh bán chiếu được tái bản liên tục.
Giọng ca thiên phú
Năm 1960, ký giả Trần Tấn Quốc tổ chức cuộc trưng cầu ý kiến khán giả trên nhật báo Tiếng Dội và anh Mười chiếm đầu bảng với danh hiệu Đệ nhất danh ca miền Nam; còn Đệ nhất danh ca miền Bắc là NS Huỳnh Thái ở Hà Nội.
Tôi biết NSND Út Trà Ôn trước đó nhưng ít có dịp tiếp xúc, chỉ nghe anh ca bài Tôn Tẩn giả điên mà đã thấy nể vì chất giọng điêu luyện. Sau này, khi cộng tác với Đoàn Kim Thanh - Út Trà Ôn, có dịp trao đổi, làm việc, tôi thật sự kính mến nhân cách người NS, đặc biệt là giọng ca thiên phú của anh Mười.


NSND Út Trà Ôn và NSND Kim Cương (ảnh Thanh Hiệp)
Anh Mười luôn cầu tiến. Cách rèn giọng của anh được người trong nghề kính phục vì biết tạo âm vực đủ để khi phát âm tròn vành, rõ chữ. Anh còn có khiếu sắp văn chẻ nhịp... Nếu lắng nghe NSND Út Trà Ôn ca và có óc phân tích, bạn sẽ nhận biết ngay thế mạnh của anh trong câu vọng cổ chính là chữ “hơ” điêu luyện và dấu sắc, dấu hỏi chất chứa sự “giàu có” của làn hơi.


NSND Út Trà Ôn trong vở Giấc mộng đêm xuân (ảnh Thanh Hiệp)
Anh Mười khi đã chơi thì ngông lắm nhưng hễ làm nghề là hết mình. Trước khi diễn, anh vẽ cặp chân mày đến 2 giờ. Hồi anh làm đoàn hát, NSƯT Diệu Hiền được tăng cường về hát chánh. Một lần, Diệu Hiền vô câu vọng cổ: Cha ơi con biết mình đã làm nên tội. Ơn của cha con ngàn đời ghi nhớ khi cha đã hy sinh cho con có một cuộc sống đủ… đầy. Vậy mà, nhìn thần sắc của anh Mười, Diệu Hiền sợ quá nên quên lời, thay vì “đủ đầy” thì cô lại ca... “đẩy đù”. Anh Mười tức giận xô cô té nhào xuống dàn đờn.
Bị Hồng Nga chơi khăm
Út Trà Ôn rất khoái chơi số đề. Người “thường trực” nằm mộng cho số để anh Mười đánh đề không ai xa lạ chính là NS Hồng Nga. Lúc đó, Hồng Nga còn bé xíu, đen đúa, mập ú, được nhận vào đoàn hát để phụ việc lặt vặt cho anh Mười. Siêng năng nhưng rất lí lắc, biết thần tượng thích chơi đề, cô bày ra trò nằm mơ báo mộng để anh Mười bàn số.
Một buổi sáng, anh Mười hỏi Hồng Nga: “Tối qua, mày nằm chiêm bao thấy cái gì?”. Hồng Nga thưa: “Dạ, tối qua con không nằm mơ”. Anh Mười tức giận: “Tao ra lệnh bây giờ mày phải đi ngủ để chiêm bao, rồi cho tao biết số mà ghi đề”. Hồng Nga leo lên giường ngủ một giấc tới trưa rồi bật dậy, bịa: “Con gặp vua huỳnh đế, ông ấy cho 5 xu”. Anh Mười gãi đầu: “Làm gì có ông vua huỳnh đế nào, chắc là con cua huỳnh đế”. Anh bàn số rồi ghi đề... Chiều đó xổ số trật lất, Hồng Nga trốn biệt. Từ ngày biết bị cô bé giúp việc chơi khăm, anh Mười nghỉ chơi đề luôn.


Sau NSND Út Trà Ôn, nhiều nghệ sĩ tài danh đã thể hiện bài Tình anh bán chiếu - NSƯT Thanh Sang quay video bài ca cổ này năm 1998 (ảnh Thanh Hiệp)

NSƯT Vũ Linh đã đặt hàng soạn giả Viễn Châu viết hẳn một kịch bản Tình anh bán chiếu để anh diễn quay video năm 2000 (ảnh Thanh Hiệp)
Hồng Nga thường tìm cách chọc ghẹo anh Mười trong những tình huống gay cấn. Lúc diễn vở tuồng Tuyệt tình ca, Hồng Nga  - đóng vai bà giáo Lan - nắm tay anh Mười - vai ông cò - rồi ém hơi nói nhỏ: “Bàn tay này chơi xập xám hoài coi chừng có ngày bị cảnh sát hỏi thăm”. Đang lúc diễn đoạn ông cò gặp lại người vợ sau nhiều năm xa cách, không thể phản ứng gì mà phải tỏ ra mùi mẫn, lâm ly, anh Mười chỉ biết đưa mắt “căm hờn” trừng Hồng Nga. Sau lớp diễn, anh Mười vào hậu trường tìm thì Hồng Nga đã trốn biệt, tới lớp mới lại lò dò ra sân khấu...
“Sống” nhờ Tình anh bán chiếu
Khi đã ở tuổi 80, NSND Út Trà Ôn vẫn đi ca trong các chương trình cổ nhạc mà Bích Phượng, con gái anh, tổ chức. Có lần gặp nhau, anh khoe: “Anh Bảy nè, hồi trẻ tui diễn biết bao nhiêu tuồng nhưng tới tuổi này chỉ “sống” nhờ vào mấy câu vọng cổ Tình anh bán chiếu của anh”.
Đi xe chung với nhiều người khiến anh mệt. NSND Ngọc Giàu và NS Kim Ngọc xáp lại rầy Bích Phượng: “Mày biết ba lớn tuổi rồi mà sao đi hát cứ kéo ổng theo hoài?”. Bích Phượng mếu máo: “Để ở nhà, ba đâu có chịu”. Vậy mà hễ tới nơi, bước lên sân khấu là anh Mười nhất định phải ca đủ 6 câu vọng cổ mới chịu xuống.

Gã si tình nặng nghiệp cầm ca: Mối tình Út Bạch Lan - Thành Được

Thứ Sáu, 25/05/2012 22:51

Cuộc hôn nhân Thành Được - Út Bạch Lan có hôn thư giá thú, đám cưới tổ chức long trọng. Sau đó, về Đoàn Thanh Minh - Thanh Nga, cả hai tiếp tục tạo dấu ấn qua nhiều vở cải lương. Khi ấy, bóng dáng nghệ sĩ Thanh Nga đã xuất hiện trong cuộc tình của họ…

Tháng 5-2012, nghệ sĩ (NS) Phượng Liên và NS Mai Thế Hiệp từ Mỹ điện thoại về xin phép tôi tổ chức 2 suất hát tại California - Mỹ. Tôi hỏi duyên cớ gì, Phượng Liên nhắc: “Đã nửa thế kỷ bài tân cổ giao duyên của bác Bảy rồi, tụi con làm để cảm ơn bác đã viết cho đời, cho NS thể loại này”. Tôi mừng nhất khi hay tin NS Thành Được sẽ xuất hiện trong 2 đêm hát.
Tình duyên đưa đẩy
Thành Được - người được mệnh danh “ông vua không ngai” - tên thật là Châu Văn Được, bước lên sân khấu năm 1954 trong gánh hát của người chú, lúc đó chỉ đóng thế vai vì một NS bị bệnh. Thế mà 2 năm sau, tên tuổi Thành Được đã nổi bật trong vai Tô Điền Sơn (tuồng Khi hoa anh đào nở của Hà Triều Hoa Phượng) cùng Thúy Nga, cô đào thương sáng giá ở Đoàn Thúy Nga.
Năm 1958, Thành Được về Đoàn Kim Chưởng, sau đó tới Đoàn Thanh Minh - Thanh Nga, rồi trở lại Kim Chưởng. Lúc này, tôi gặp NS Thành Được, viết tặng anh bài Biệt kinh kỳ. Trong 2 đêm hát ở Mỹ mới đây, anh đã hát lại bài này dù đã 79 tuổi. 

Nghệ sĩ Thành Được và Út Bạch Lan năm 1960 ẢNH TƯ LIỆU CỦA NSND VIỄN CHÂU
Tình duyên đưa đến, năm 1962, cặp NS tài danh Út Bạch Lan - Thành Được lập đoàn hát mang bảng hiệu Thành Được - Út Bạch Lan. Đến năm 1967, Thành Được đoạt HCV Giải Thanh Tâm với vai diễn tướng cướp Thi Đằng (Tiếng hạc trong trăng). Lúc mới quen, tôi dò hỏi vì sao lấy nghệ danh Thành Được, anh cười giải nghĩa: “Em lấy chữ Thành từ sự kính nể giọng ca của người đàn anh là Thành Công, ghép với chữ Được là tên cúng cơm. Có một dạo em muốn lấy tên Út Được vì cũng thích danh ca Út Trà Ôn nhưng lại thôi”.
NSND Viễn Châu và NSƯT Út Bạch Lan (ảnh Thanh Hiệp)
Chất giọng của Thành Được mang hương vị ngọt hậu. Giọng thoại của anh nghe sang trọng, trí thức. Nhờ đó mà những vai trong các tuồng xã hội, anh diễn rất đạt, như Lĩnh Nam - Sân khấu về khuya. Tuy vậy, tướng cướp Thi Đằng vẫn là vai độc đáo nhất, là đỉnh cao trong sự nghiệp ca diễn cải lương của Thành Được. Sau này, anh có thêm các vai tuồng ấn tượng: Tùng (Nửa đời hương phấn), Văn (Con gái chị Hằng), Diệp Băng Đình (Thuyền ra cửa biển), Điệp (Lan và Điệp)...
“Kép hát thượng thặng”
Năm 1957, khi bộ tứ bầu gánh Út Trà Ôn, Kim Chưởng, Thúy Nga, Thanh Tao rã phần hùn, giải tán Đoàn Kim Thanh - Út Trà Ôn, NS Thúy Nga quy tụ một số NS cũ của gánh, thành lập Đoàn Thúy Nga - Phước Trọng, mời NS Thành Được làm kép chánh trong 2 năm. Sau đó, đoàn trình diễn vở Khi hoa anh đào nở với kép chánh Thành Được trong vai kiếm sĩ Tô Điền Sơn, đã thành công lớn về mặt nghệ thuật lẫn doanh thu.
NS Thanh Tú, NSƯT Út Bạch Lan, NSND Ngọc Giàu và NS Trang Bích Liễu trong chương trình Làn điệu phương nam năm 2007 (ảnh Thanh Hiệp)
Trong 3  nam NS ăn khách nhất bấy giờ: Hữu Phước, Thành Được và Hùng Cường thì tuy Thành Được có giọng ca truyền cảm kém hơn Hữu Phước nhưng hơn hẳn Hùng Cường; về sắc vóc thì Thành Được đẹp trai hơn Hữu Phước và khôi ngô không kém Hùng Cường. Vì thế, một dạo điện ảnh miền Nam đã có sự tham gia của 2 nam NS này...
NS Thành Được và các nghệ sĩ tham gia đêm vinh danh soạn giả NSND Viễn Châu tại Mỹ (13-5-2012) (ảnh: Hùng Lý)
Tuy nhiên, theo tôi, nếu gọi là đạt chuẩn về giọng ca thì phải nói đến Hữu Phước và Thành Được. Còn Hùng Cường, từ ca nhạc chuyển sang, cuộc dạo chơi của anh rất bảnh, ghé vào khóm hoa nào cũng thơm ngát mùi hương nhưng về diễn xuất không thể có bề dày để quyền biến như 2 NS kia. Hơn nữa, Thành Được và Hữu Phước có nhiều thuận lợi hơn vì được nhiều soạn giả tài danh đương thời cung ứng tuồng mới, “đo ni đóng giày” để nắm bắt nhiều cơ hội biểu dương tài năng ca diễn.
Ký giả Nguyễn Ang Ca (soạn giả Ngọc Huyền Lan) hồi đó đã tặng biệt danh “Giọng ca vàng” cho Hữu Phước và “kép hát thượng thặng” cho Thành Được.
Sân khấu - cuộc đời
Từ Đoàn Kim Thanh - Út Trà Ôn tách ra, bà Kim Chưởng cũng lập gánh hát riêng, ký ngay hợp đồng với NS Út Bạch Lan và NS Thành Được sau khi anh rời gánh Thúy Nga. Đoàn Kim Chưởng hồi đó nổi danh là “Anh hùng lưu diễn” vì đi đến sân bãi nào thì… cỏ không thể mọc nổi do khán giả quá đông.
NSƯT Út Bạch Lan năm 1960 (ảnh do ông Tăng Văn Trọng cung cấp)
Khán giả say mê những vai diễn của Thành Được - Út Bạch Lan qua các vở tuồng: Chưa tắt lửa lòng, Bên đồi trăng cũ, Thuyền ra cửa biển, Áo trắng nàng Mộng Trinh, Nửa bản tình ca, Người đẹp Thành Bát Đa… Chính cuộc tình thắm đượm nhân nghĩa trên sân khấu đã xe mối lương duyên để cả hai trở thành đôi uyên ương ngoài đời.
NSƯT Út Bạch Lan viếng mộ cố NSƯT Thanh Nga (ảnh Thanh Hiệp)
Tôi còn nhớ tại Đoàn Kim Chưởng, cuộc hôn nhân của Thành Được - Út Bạch Lan có hôn thư giá thú, đàng trai được cô Bảy Phùng Há đứng chủ hôn, bên đàng gái có bà bầu Kim Chưởng. Đám cưới được tổ chức long trọng, hầu hết các ký giả kịch trường, soạn giả và NS tài danh đều được mời tham dự.
Đầu năm 1962, Út Bạch Lan và Thành Được rời gánh hát của bà Kim Chưởng để về Đoàn Thanh Minh - Thanh Nga. Cả hai tiếp tục tạo dấu ấn qua các tuồng: Con gái chị Hằng, Tấm lòng của biển, Bọt biển, Chuyện tình 17, Tình Xuân muôn tuổi, Rồi 30 năm sau, Giấc mộng giữa hoàng lăng... Khi ấy, bóng dáng NS Thanh Nga đã xuất hiện trong cuộc tình của họ…
Cuộc hội ngộ hiếm hoi của bộ ba: cố NS Ngọc Nuôi (vai Diệu), NS Thành Được (vai Tùng) và NSƯT Út Bạch Lan (vai Hương) trong trích đoạn Nửa đời hương phấn tại Nhà hàng Thành Được - San Jose năm 2005 (ảnh do MC Thanh Tùng cung cấp)
 
Tình duyên đào - kép thường đến rồi đi, sum vầy đó rồi lại chia biệt đó... Theo tôi, không thể đổ lỗi do ai, vì ai, mà chỉ nên xét về mặt hiệu quả của nghề hát. Cuộc tình Thành Được - Út Bạch Lan đã để lại cho đời nhiều vai diễn hay, nhiều bài ca cổ bất hủ cùng năm tháng, bởi trong lời ca dạt dào tình cảm có phần đời của chính họ.
Như em út trong nhà
Tôi thương Út Bạch Lan và Thành Được như em út trong nhà.
Khi ở Đoàn Kim Chưởng, vì một lý do khách quan mà Thành Được phải ngồi tù vì bị tòa tuyên vi phạm quy tắc hợp đồng với bà bầu. Tôi đã viết bài ca cổ Đêm lạnh trong tù, sau đó Thành Được thu dĩa bán rất chạy. Còn soạn giả Quy Sắc thì viết bài Xách cơm vô khám nuôi chồng, khán thính giả nghe rất xúc động với giọng ca “sầu nữ” Út Bạch Lan…